[Góc nhìn] Khá Bảnh bị bắt và nghiên cứu của Chambliss

Vụ anh Khá bị bắt có thể lý giải bằng một nghiên cứu rất thú vị của Chambliss (1973) The Saints and the Roughnecks.

Trong nghiên cứu rất nổi tiếng của mình Chambliss (1973) nghiên cứu hai nhóm tội phạm thanh thiếu niên, một từ gia đình thượng và trung lưu, và một từ gia đình nghèo. Mặc dù đều tham gia vào các tội phạm như nhau (trộm, phá phách công trình văn hóa), chỉ có nhóm thanh niên nhóm người nghèo bị bắt và gây khó dễ bởi cảnh sát.
Kết luận được tìm thấy là nhóm tội phạm thanh niên giàu có thường xuất hiện trong mắt cộng đồng như những người tốt, trong khi nhóm người nghèo thì thường bị đánh đồng với tội phạm. Tương tự, cộng đồng nói chung có xu hướng đánh đồng các nhóm giang hồ với lệch chuẩn và phạm pháp. Điều này không phải lúc nào cũng đúng.
Theo lý thuyết gán nhãn, thông thường, những người nằm trong bộ máy thống trị, có sức mạnh áp đặt các chuẩn mực và do đó cũng áp đặt luôn thế nào là "lệch chuẩn". Đó là những người trong tầng lớp thống trị về chính trị áp đặt nó lên người bị trị, người giàu có và trung lưu lên người nghèo, nam lên nữ, dân tộc đa số lên dân tộc thiểu số.
BẢN THÂN MỘT HÀNH VI NÀO ĐÓ TỰ NÓ KHÔNG GỌI LÀ LỆCH CHUẨN HAY CHUẨN MỰC. Nó chỉ trở thành lệch chuẩn hay chuẩn mực vì có người gán cho nó.

[Xã hội học] - Xã hội học qua cái nháy mắt


Vừa rồi đi chơi Great Ocean Road với vợ chồng đứa bạn người Úc, lúc lái xe trên đường trường rất buồn ngủ. Vợ chồng nó khá ngạc nhiên là mình học Xã hội học từ hồi đại học tới giờ mới bịa việc ra hỏi cho đỡ chán: ‘Nếu tao vào học Xã hội học năm thứ nhất, tao sẽ học được cái gì?’.
Mình bần thần nghĩ bụng hỏi rộng quá, tao biết trả lời thế nào. Có ti tỉ thứ sẽ được học. Vấn đề bây giờ là nói cái gì cho chúng nó là dân ngoại đạo dễ hiểu cơ. Mà việc gọi tên ra cái bản chất của ngành mình học – cái quen thuộc với mình - luôn là khó khăn, đặc biệt đối với Xã hội học – một ngành quá rộng.
May quá nhớ đến Clifford Geertz (1), vốn là nhà nhân học Mỹ, từng nói đến cái chớp mắt (blink) và cái nháy mắt (wink), mình mới tán:
- Để tao hỏi bọn mày trước, theo bọn mày thì cái chớp mắt với cái nháy mắt khác nhau gì?
Trong lúc cô vợ đang không biết trả lời thế nào, anh bạn mình ngẫm một lúc bảo:
- Cái chớp mắt là khi cả hai mắt cùng vận động, còn nháy mắt thì thường chỉ có 1 mắt thôi.
- Ồ, quan sát rất hay. Thế còn gì khác nhau nữa không? – mình hỏi.
- Cái chớp mắt là phản ứng sinh lý, cả hai mắt đều phải nhắm, còn cái nháy mắt thì là phản ứng tới một ai đó, chỉ cần một cái để ra hiệu thôi – cô vợ trả lời.
Bắt được cái ý ‘ai đó’ mình phải hỏi ngay:
- Thế phản ứng sinh lý và phản ứng tới ai đó thì khác nhau thế nào?
- Phản ứng sinh lý thì chỉ cho mình, còn phản ứng tới ai đó kèm theo ý nghĩa gì đó cho người khác – anh chồng tiếp nối.
- Vậy có phải cái chớp mắt khác với cái nháy mắt ở chỗ cái nháy mắt là hành động bao hàm ý nghĩa hướng tới người khác, còn cái chớp mắt thì không? – mình được đà hỏi tiếp.
- Đúng rồi – hai đứa nó gật gù.
- Thế tại sao cái nháy mắt lại bao hàm ý nghĩa tới người khác – mình muốn hỏi sâu hơn.
- Vì để chuyển tải cái gì đó, để tương tác và xây dựng mối quan hệ với họ - anh chồng bảo.
- Thế đấy – mình nghĩ đến lúc rồi nên đưa chúng nó quay lại ý của Max Weber (2) - Xã hội học bọn tao chính là đi tìm hiểu ý nghĩa của cái nháy mắt đấy. Cái nháy mắt luôn đưa tình, vì nó là một hành động xã hội (social action), nó chuyển tải ý nghĩa nào đó tới người khác để xây dựng liên kết và quan hệ xã hội.
- À, thế hôm nay bọn tao học được thêm một thứ về xã hội học.
Melbourne 27/12/2017
*(1) Clifford Geertz trong tác phẩm Diễn giải văn hóa năm 1973, trong khi bàn về mô tả sâu (thick description) có nói tới sự khác biệt giữa cái chớp mắt và cái nháy mắt.
(2) Max Weber cho rằng xã hội học là phải thấu hiểu ý nghĩa của hành động xã hội, là hành động hướng tới người khác, nhằm mục đích xây dựng mối quan hệ xã hội.

[Góc nhìn] - TỰ TỬ DỄ ĐẾN THẾ: CÓ PHẢI THẾ HỆ ĐANG LỚN LÊN LÀ THẾ HỆ DỄ BỊ TỔN THƯƠNG? (Hay chúng ta đang VÔ TÂM?)


Đoạn video kinh hoàng của cậu bé cãi nhau với mẹ rồi bất thình lình lao ra khỏi xe và nhảy khỏi cầu ở Thượng Hải để lại cho tôi một nỗi ám ảnh to lớn (Link 1 - cân nhắc trước khi xem bài này).

Sự kiện cậu bé này rất gần gũi với một câu chuyện gần đây cũng thương tâm không kém của một cô bé chọn lựa cách kết thúc cuộc đời mình ở Bắc Ninh (Link 2).

Dạo một vòng qua các báo mạng, tôi không khỏi lo lắng nhận ra ở xã hội chúng ta đang sống việc một ai đó tự kết thúc cuộc đời mình trong nỗi bàng hoàng và mất mát của người thân ở lại là một chuyện không quá xa lạ nữa. (Chỉ trong 1 tháng qua, báo kenh14 đăng 14 vụ tự tử. Dĩ nhiên, cần một thống kê chính xác để đánh giá đầy đủ hiện tượng này, nhưng có lẽ chúng ta không thể xem thường được nữa).

Rồi tôi cứ nghĩ mãi tại sao cậu bé hay cô bé kia lại hành động như vậy?

Tất nhiên nhiều người sẽ chỉ ra ngay rằng mâu thuẫn xung đột với người mẹ khiến cho cậu bé hóa điên và hành động bất chấp hậu quả; và rằng việc bị tấn công, hãm hiếp bởi người bạn khiến cô bé ở Bắc Ninh phá bỏ mạng sống của mình. Tôi đồng ý rằng đây là những những tác động trực tiếp bên ngoài có vai trò xúc tác dẫn tới cao trào của hành động không suy nghĩ và kết thúc bằng hậu quả thương tâm. Nhưng có phải ai gặp những tác động tiêu cực bên ngoài đó đều đi đến hành vi dừng mạng sống của mình?

Do đó, ở đây tôi muốn đưa ra một kiến giải khác. Một kiến giải từ phía nạn nhân – người thực hiện hành vi tự tử. Cùng chịu những áp lực xã hội, những cú sốc, điều gì khiến những cá nhân tự tử?

Một trong những đặc trưng của đời sống hiện đại là sống cùng với nguy cơ (risk). Nguy cơ là xác suất bị làm hại, bị thương tổn hay nhận tác động xấu bởi các đe dọa (threat) bên ngoài. Hãy tạm gác lại các đe dọa dạng như thảm họa thiên tai, khủng bố, thực phẩm bẩn, tôi muốn nhấn mạnh ở đây các cú sốc hay áp lực xã hội. Đó có thể là áp lực thi cử, thi trượt đại học, mâu thuẫn với cha mẹ hay người thân, thất tình, thua nợ, v.v. Khi các cá nhân không thể chống chịu được các đe dọa thì họ sẽ lâm vào khủng hoảng (crisis).

Cùng một nguy cơ, có người sẽ vượt qua được, có người lại không vượt qua được. Về cơ bản, mỗi cá nhân chúng ta đều có khả năng phục hồi các thương tổn (resilience). Khả năng này tới từ sự mạnh mẽ của tinh thần (mental toughness), hay khả năng sử dụng các cách thức khác nhau để hàn gắn vết thương bên trong như đọc sách, nghe nhạc, thiền, chơi thể thao, chơi game, trò chuyện với người khác, để rồi họ có thể phục hồi và vượt qua các khủng hoảng. Nhưng cũng có những người không vượt qua được. Họ chính là những người DỄ BỊ TỔN THƯƠNG (vulnerability). YẾU ĐUỐI LÀ MỘT TRẠNG THÁI DỄ BỊ TÁC ĐỘNG BỞI TÁC NHÂN BÊN NGOÀI DO VIỆC THIẾU GIÁ TRỊ SỐNG, CÁC NGUỒN LỰC VÀ KỸ NĂNG SỐNG PHÙ HỢP ĐỂ QUẢN TRỊ CẢM XÚC VÀ KHỦNG HOẢNG, NHẰM GIÚP BẢN THÂN VƯỢT QUA CÁC TRẦM CẢM VÀ CÁC ÁP LỰC XÃ HỘI. Tôi tự hỏi, có bao nhiêu người, đặc biệt là những người trẻ được dạy các kỹ năng sống này ở trường học để vượt qua các khó khăn, thử thách trong cuộc đời?

Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng có thể phỏng đoán, chuyện cô bé tự tử ở Bắc Ninh hay chuyện cậu bé tự tử ở Thượng Hải, thể hiện rằng bản thân hai người họ đã đang ở trong một trạng thái yếu đuối, mất cân bằng khá thường xuyên. Ở trạng thái này, hễ các tác nhân bên ngoài tác động (cha mẹ mắng mỏ, xung đột với bạn bè, hay thi rớt đại học, v.v.) đều có thể khiến tâm lý họ rơi vào thái cực cực đoan và khủng hoảng. Ở TRẠNG THÁI ĐÓ, HỌ KHÔNG CÒN ĐỦ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN CÁC CHỨC NĂNG THÔNG THƯỜNG (NORMAL FUNCTION), ĐẶC BIỆT LÀ SUY NGHĨ CÓ LÝ TÍNH, để cân nhắc đến những câu hỏi chuẩn mực kiểu như vứt bỏ mạng sống quý gía của mình mà bố mẹ đã dày công dưỡng dục và nuôi lớn có phải là một điều tội lỗi, rằng chấp nhận kết thúc cuộc sống rồi để lại nỗi đau khôn cùng cho những người mình yêu thương liệu có đáng, v.v.

Link 1: (bạn đọc cân nhắc trước khi xem) http://www.doisongphapluat.com/tin-the-gioi/video-nguoi-me-nga-guc-khi-thay-con-trai-17-tuoi-nhay-cau-tu-tu-sau-khi-bi-chi-trich-a271937.html

Link 2: (bạn đọc cân nhắc trước khi xem) http://kenh14.vn/he-lo-tin-nhan-cuoi-cung-cua-nu-sinh-nhay-cau-tu-tu-nghi-bi-hiep-dam-em-khong-muon-song-nua-no-phai-chiu-trach-nhiem-ve-nhung-gi-da-gay-ra-20190416184855968rf2019041912064339.chn

[Góc nhìn] - Câu chuyện đất đai 3 vùng

Các đặc trưng đất đai luôn phản ánh hệ thống kinh tế xã hội văn hóa của từng vùng.
Ruộng khu vực sân bay Nội Bài - Hà Nội


Một cánh đồng thẳng cánh cò bay ở Tây Nam Bộ

Khác biệt đơn vị đo lường

- Ở miền Bắc, nông dân hay dùng SÀO. Một sào là 360m2. 
- Ở Bắc Trung Bộ, như Nghệ An, cũng dùng SÀO. Nhưng sào ở đây thường được tính là 500m2. 
- Ở Nam Bộ, đặc biệt là ĐBSCL, người ta dùng CÔNG. Một công thường là 1000m2. 

Lịch sử chính sách và sử dụng đất đai

Đi sâu vào nữa, người ta lại thấy những sai khác về diện tích đất đai thể hiện đặc trưng chính sách và văn hóa của từng vùng.
Ví dụ, ở một tỉnh Bắc Trung Bộ, một công không đơn giản là 500m2. Quá trình dồn điền đổi thửa, dồn thửa nhỏ thành thửa lớn đã tạo ra các biến dị về diện tích. Hiện nay, một công có thể là 500m2, 470m2, hoặc 450m2.
Ở ĐBSCL, các ấp Khmer nơi tôi khảo sát công TẦM ĐIỀN là 1000m2. Nhưng các ấp người Kinh ở dùng công TẦM LỚN là 1,296m2. Có những nông hộ đã canh tác trên những mẫu lớn, từ 15-17 ha trở lên.
Nhìn qua, có thể thấy Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ quy mô sản xuất nhỏ và manh mún, nông hộ vẫn có xu hướng bám giữ ruộng đất ông cha để lại. Ở Nam Bộ, xu hướng nông hộ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn đang diễn ra với quá trình tích tụ ruộng đất mạnh mẽ hơn, cho đến khi toàn bộ tầng lớp bần cố nông chuyển sang lao động công nghiệp, làm thuê, và dịch vụ, và hình thành những nông doanh to lớn.

[Lý thuyết] - VIỆT NAM ĐANG Ở GIAI ĐOẠN NÀO CỦA HIỆN ĐẠI HÓA?


Hiện đại hóa (modernization) là một quá trình dùng để chỉ sự phát triển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại bắt đầu từ thế kỷ XVII ở Châu Âu và sau đó lan ra khắp các nơi trên thế giới. Xã hội hiện đại (modern society) được dùng để mô tả giai đoạn xã hội phân biệt với hình thái tiền công nghiệp. Động lực chính của xã hội hiện đại là quá trình công nghiệp hóa (industrialization) với việc đem công nghệ máy móc vào thay đổi chu trình sản xuất, tạo ra sự tăng trưởng của cải chưa từng có trong lịch sử. Đi cùng với đó là quá trình đô thị hóa, phá vỡ các cấu trúc xã hội ở nông thôn, đẩy người nông dân vào các nhà máy và trở thành những người công nhân vô sản. Marx, nhìn từ góc độ kinh tế và duy vật lịch sử, xem xã hội hiện đại là xã hội tư bản chủ nghĩa với sự phân hóa và mâu thuẫn cùng cực giai cấp giữa kẻ thống trị là những người nắm tư liệu sản xuất (nhà máy) và vốn (capital) và những người công nhân vô sản. Max Weber cho rằng kinh tế không phải là thứ động lực duy nhất tạo ra hình thái của xã hội hiện đại. Ông tập trung mô tả chuyển động của quá trình lý tính hóa (rationalization) – quá trình phát triển chưa từng có về tri thức khoa học, đem tri thức khoa học trở thành một động lực nền tảng cho việc kiểm soát thiên nhiên và xây dựng tổ chức xã hội một cách khoa học, điển hình là sự xuất hiện của các bộ máy quan liêu (bureaucracy).
Tuy nhiên, đến những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu gọi tên cho sự kết thúc của hiện đại hóa giai đoạn 1.
Những nhà lý thuyết như Anthony Giddens và Ulrich Beck cho rằng chúng ta chưa thoát khỏi xã hội hiện đại, mà vẫn đang ngập ngụa trong xã hội hiện đại, chỉ có điều đó là hình thức rất khác với hình thức xã hội hiện đại giai đoạn một (từ thế kỷ XVII tới những năm 70-80 của thế kỷ XX). Cả hai nhà lý thuyết này đều cho rằng chúng ta đang ở giai đoạn hiện đại phản thân (reflexive modernity), nói đơn giản là việc chúng ta phải đối mặt với những hậu quả mà quá trình hiện đại hóa mang lại, từ chiến tranh hạt nhân, biến đổi khí hậu, cho tới khủng bố, sự ô nhiễm môi trường và thức ăn, v.v. Các rủi ro đó được quá trình toàn cầu hóa phân phối vượt qua ranh giới quốc gia và ranh giới giàu nghèo. Beck gọi đó là xã hội rủi ro (risk society). Theo Beck, xã hội rủi ro, khác với xã hội công nghiệp có đặc trưng là sản xuất và phân phối của cải (wealth production and distribution), thì xã hội rủi ro song hành với loại hình phân phối của cải, có đặc trưng sản xuất và phân phối rủi ro.
Những lý thuyết trên hầu hết được xây dựng dựa trên quan sát của các nhà lý thuyết về tình hình phát triển của phương Tây (Mỹ, Châu Âu), chưa thực sự phản ảnh được sự đa dạng và phức tạp của độ biến thiên nếu xét đến đặc thù phát triển của các nước thế giới thứ ba, như các nước Châu Phi hay những nước đang phát triển như VIệt Nam.
Việt Nam chỉ vừa mới thoát khỏi chiến tranh được hơn 30 năm. Loay hoay mất 10 năm trong bao cấp, sau đó bắt đầu mở cửa và thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Về cơ bản, quá trình này giải phóng các lực lượng kinh tế, cho phép kinh tế thị trường phát triển dù lơ lửng trên đầu vẫn là “định hưỡng xã hội chủ nghĩa”. Chủ trương Việt Nam là công nghiệp hóa và hiện đại hóa, một chủ trường được xem là đi tắt đón đầu, vừa thực hiện quá trình công nghiệp hóa mà phương Tây đã thực hiện rất lâu từ thế kỷ XVII với việc phát triển công nghiệp, xây dựng các trung tâm đô thị lớn cùng với đó là quá trình mất đất ở nông thôn và việc lượng lớn dân cư nông thôn di cư ra đô thị, vừa thực hiện hiện đại hóa bằng cách mở cửa, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, ký kết các hiệp định song phương, đa phương, chuyển giao công nghệ, văn hóa và gia nhập nhanh chóng vào môi trường Internet.
Với việc tham gia vào cả hai giai đoạn này, không khó hiểu chúng ta đang ở cả giai đoạn vừa tạo và phân phối của cải (wealth production and distribution) vừa tạo và phân phối rủi ro (risk production and distribution). Chẳng hạn, Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trong số các thành phố hiện đại nhất cả nước, là đầu tàu về phát triển công nghiệp và hiện đại hóa. Đây cũng là hai thành phố với chỉ số ô nhiễm không khí gần đây nằm trong top 5 thành phố trên thế giới. Nguy cơ từ thức ăn bẩn, mất vệ sinh được xem là một trong những nguy cơ thường trực đối với các thành phố. Cùng với việc các nhà máy, xí nghiệp mọc lên là vấn đề ô nhiễm và phá hoại môi trường. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai bão lũ, hạn hán, nước biển dâng trong khi năng lực quản lý rủi ro chưa đồng bộ và còn yếu kém khiến Việt Nam trở thành một trong số quốc gia dễ bị tổn thưởng nhất bởi biến đổi khí hậu và thiên tai. Đặc trưng của rủi ro là nó không chỉ là vấn đề của người nghèo, người yếu thế. Nó cũng là vấn đề của người giàu, của tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Qua những biểu hiện đó, Việt Nam chúng ta vừa có đặc trưng của giai đoạn công nghiệp hóa ban đầu với sự tăng trưởng về của cải và phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, nhưng cũng vừa có đặc trưng của xã hội rủi ro với việc các tầng lớp đều phải đối mặt hàng ngày với hàng loạt nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng và mức sống. Liệu chúng ta có thể gọi xã hội của chúng ta hiện nay là một xã hội hiện đại kiểu gì?

[Phương pháp] - Kỹ thuật tam giác đạc trong nghiên cứu Khoa học Xã hội


Phép đạc tam giác (triangulation): để xác nhận hay để hoàn thiện dữ liệu?




Trước đây khi bắt đầu học về định tính, tôi nghe tên tam giác đạc, hay đạc tam giác (triangulation) thì thấy thích lắm, vì thuật ngữ có vẻ sang, vẻ lạ. Nhưng nói thật hỏi có hiểu về nó hay không thì mơ hồ, chứ chưa nói đến việc vận dụng. 

Mới đây, khi tham gia một tranh luận trên researchgate.net, mới biết kỹ thuật này thực ra đã thay đổi ý nghĩa khá nhiều, mà từ trước nay mình vẫn dùng với ý nghĩa cũ. Hình minh họa ở trên chỉ sử dụng kỹ thuật tam giác đạc ở một chiều cạnh là methodological triangulation. 



Nguồn gốc


Vốn dĩ, thuật ngữ "đạc tam giác" dùng để chỉ một kỹ thuật sử dụng trong lượng giác học và hình học, để tìm kiếm vị trí của một điểm bằng cách tạo ra các tam giác từ điểm này với các điểm đã biết (xem Wikipedia). 

Khoa học xã hội đã vay mượn và dùng nó như một ẩn dụ. Campbell (1956) sử dụng như một kỹ thuật cho phép sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu khác nhau trong một nghiên cứu đặc điểm lãnh đạo. 

Quan điểm của Denzin (1978)

Sau đó, kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi mặc dù tranh cãi về bản chất khái niệm này thì không dứt. Denzin (1978) xem kỹ thuật này như một chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực của dữ liệu (a validation strategy). Từ thời Campell, tam giác đạc đã được xem là "một cách sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong một kế hoạch giúp nhà nghiên vượt lên các thiên kiến cá nhân do việc sử dụng một phương pháp riêng" (Denzin 1978: 294). Tuy vậy, Denzin cho rằng kỹ thuật này có nhiều loại hơn là chỉ tập trung vào đạc tam giác phương pháp như định nghĩa chung này. 

***
Ông phân loại ra làm 4 loại tam giác đạc: tam giác đạc dữ liệu (data triangulation), tam giác đạc nhà nghiên cứu (investigator triangulation), tam giác đạc lý thuyết (theory triangulation), và tam giác đạc phương pháp (methodological triangulation). 


Kỹ thuật đầu tiên là kỹ thuật đối chiếu các nguồn dữ liệu (data sources) với nhau. Nó khác với loại cuối - đạc tam giác giữa các phương pháp. Cứ tưởng tượng, bạn sử dụng một phương pháp duy nhất để so sánh từ các nguồn dữ liệu khác nhau. Mà nguồn dữ liệu thì có 3 đặc trưng, gồm thời gian, địa điểm, và con người. Từ đó, chúng ta thu thập dữ liệu ở các thời điểm, khu vực, và từ các con người khác nhau sẽ cho ra các dữ liệu có sắc thái khác nhau để mà đối chiếu. 

Kỹ thuật thứ hai là nói đến sử dụng nhiều hơn một nhà nghiên cứu trong cùng một dự án. Một nghiên cứu viên thường có nền tảng giáo dục, văn hóa nhóm, kinh nghiệm cá nhân khác nhau, tạo ra cách nhìn khác nhau đối với sự vật, hiện tượng. Cho nên, nhiều nhà nghiên cứu sẽ giúp kiểm soát các thiên kiến cá nhân (personal biases). Đây là cơ sở lý luận cho việc xây dựng các nghiên cứu hợp tác (collaborative research). Một nhóm nghiên cứu sẽ có điều kiện thực hành "soi gương", phản biện lẫn nhau, nhằm gạn lọc các thông tin và kiến thức và loại bỏ đi các thiên kiến.

Kỹ thuật thứ ba là nói đến sử dụng nhiều hơn một cách nhìn lý thuyết khi đánh giá về cùng một sự vật, hiện tượng được quan sát. Cùng một loại dữ liệu, mỗi góc độ lý thuyết sẽ đưa ra các diễn giải khác nhau. Cho nên, các nghiên cứu thường xây dựng khung lý thuyết vay mượn hay dựa trên nhiều lý thuyết khác nhau. 

Loại kỹ thuật cuối là cách sử dụng nhiều loại phương pháp để nghiên cứu về cùng một sự việc, hiện tượng. Denzin đề xuất hai loại. Một là tam giác đạc nội phương pháp (Within-method triangulation) và hai là tam giác đạc liên kết phương pháp (between-method triangulation). Loại đầu giúp chúng ta đo lường một hiện tượng đa sắc màu hay đa chiều cạnh bằng cách thiết kế nhiều thang đo, cách thức để đo lường, đánh giá về hiện tượng. Chẳng hạn cùng một bảng hỏi, đo lường về năng lực lãnh đạo, chúng ta có thể sử dụng các thang định danh, thứ bậc, thang khoảng khác nhau để đo lường. Kết quả từ mỗi kiểu thang đo được kỳ vọng giúp mô tả đặc trưng đa sắc của hiện tượng. Loại tam giác đạc phương pháp thứ hai kết hợp sử dụng các phương pháp khác nhau vì nhiều người tin rằng nếu chỉ dùng một phương pháp thì thông tin thu được sẽ thiếu hụt dù có thiết kế bao nhiêu loại thang đo đi nữa. Do đó, nhà nghiên cứu nên sử dụng một phương pháp chính và nhiều phương pháp phụ để đối chiếu, so sánh (Denzin 1978: 302). 


Cách lý luận của Denzin chính là đặt mục đích của tam giác đạc nhằm để cung cấp một sự xác nhận (confirmation). Cùng một hiện tượng, sử dụng nhiều nguồn dữ liệu, nhiều người nghiên cứu, nhiều góc độ lý thuyết và nhiều phương pháp để xác nhận thông tin thu được về hiện tượng đó. Việc xem tam giác đạc như một chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực của dữ liệu (validation strategy) từng được chấp nhận khá rộng rãi. 

Thay đổi gần đây


Tuy vậy, gần đây, các nhà nghiên cứu lại phản pháo rằng, cách tư duy này hạ thấp vai trò và khả năng của mỗi phương pháp riêng biệt (xem Flick 2004: 178). Chẳng lẽ từng phương pháp không đủ sức để mang lại các kết luận có giá trị (validated) hay sao? Nếu cứ thế thì nghiên cứu nào sử dụng nhiều phương pháp mới đáng được tin tưởng? Nhiều người cho rằng, bản thân từng phương pháp, từng nguồn dữ liệu, có thể đủ sức mang lại các kết luận có ý nghĩa rồi, không cần phương pháp hay nguồn dữ liệu khác bổ sung, xác nhận. Chẳng hạn, nếu phỏng vấn một người phụ nữ về kinh nghiệm mang thai thì việc kiểm tra tính hiệu lực của dữ liệu có thể thực hiện được chỉ với các thông tin từ phỏng vấn từ ngừoi phụ nữ này, chứ không cần phải thêm các phương pháp hay trường hợp người phụ nữ khác. Như vậy, mấu chốt ở đây là tính hiệu lực được kiểm nghiệm không cần số lượng, mà cần chất lượng, không cần rộng, mà cần sâu.
Do đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng không nên xem tam giác đạc như là chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực nữa, mà xem nó như một “lựa chọn khác của việc kiểm nghiệm tính hiệu lực dữ liệu… nhằm tăng cường phạm vi, chiều sâu, và tính thống nhất trong các quá trình phương pháp (Flick 2004: 227). Cách tư duy này cho thấy nên dùng tam giác đạc với mục đích hướng tới sự hoàn thiện của dữ liệu (completeness) hơn là chỉ để xác nhận thông tin. 

Dù là để xác nhận hay làm hoàn thiện dữ liệu, tam giác đạc vẫn là một kỹ thuật có ích trong nghiên cứu khoa học xã hội. Kỹ thuật này là cơ sở để xây dựng các chiến lược nhằm đảm bảo tính tin cậy (credibility) và tính hiệu lực (validity) của dữ liệu, đặc biệt là trong nghiên cứu định tính và nghiên cứu hỗn hợp.


***

Reference: 

- Campbell, D.T, 1956. Leadership and its effects upon the group. Columbus, OH: The Ohio State University Press.
- Denzin, N., 1970. The research act: A theoretical introduction to sociological
methods. Chicago: Aldine.
- Flick, 2004, Triangulation in Qualitative Research, in Jenner, Flick, Kardoff, & Steinke (eds), A companion to qualitative research, Sage Publication: London.

[Phương pháp]: Bốn trường phái hệ hình


Bàn đến phương pháp nghiên cứu nếu chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu định lượng hay định tính thì chưa đủ. Bản thân chúng là phương pháp luận (methodology) hay là các cách tiếp cận nghiên cứu, trước và sau chúng còn có nhiều tầng thứ và khái niệm khác. Theo Creswell (2009), có thể chia thành 03 nhóm sau: (a) thế giới quan triết học (philosophical worldviews), (b) cách tiếp cận nghiên cứu (approaches), và (c) phương pháp nghiên cứu (research methods). Thế giới quan triết học là nền tảng lý luận chung dẫn dắt nhà nghiên cứu tới bản chất thực tại và chỉ ra cách để hiểu thực tại đó; cách tiếp cận nghiên cứu tập hợp các lý luận về phương pháp giúp nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu và diễn giải bản chất vấn đề; phương pháp nghiên cứu chính là các thành tố hay cách làm cụ thể ở từng công đoạn cụ thể để đạt tới bản chất vấn đề. 
Thế giới quan triết học theo Creswell bao gồm 4 loại chính gồm hậu thực chứng, thuyết kiến tạo xã hội, chủ nghĩa thực dụng, và tiếp cận biện hộ và có sự tham gia (advocacy and participatory). Cách tiếp cận nghiên cứu có 3 loại, gồm định tính, định lượng và hỗn hợp. Mỗi cách tiếp cận này lại có nhiều các chiến lược nghiên cứu khác nhau ví dụ định tính gồm (ethnography, grounded theory methods, case studies, …). Mỗi chiến lược nghiên cứu có cách thức thiết kế câu hỏi nghiên cứu, xây dựng giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết nghiên cứu, phương pháp đạt tới các vấn đề đạo đức, phương pháp chọn mẫu (sampling), thu thập dữ liệu (data collection), phương pháp làm sạch và nâng cao độ tin cậy (validation, credibility), phương pháp diễn giải và phân tích dữ liệu (data interpretation and analysis).
Ở đây, mình sẽ trình bày tóm lược từ các thế giới quan triết học.
Thế giới quan triết học: Nói gọn, đây là nền tảng lý luận triết học chung nhất để nhìn nhận bản chất thực tại. Mỗi thế giới quan đều bàn tới 2 vấn đề cơ bản: bản thể luận (ontology) và nhận thức luận (epistemology). Bản thể luận  trả lời cho câu hỏi thực tại có bản chất là gì? Còn nhận thức luận trả lời: làm sao để đạt tới việc nhận thức bản chất đó. Về cơ bản, có 4 trường phái lý giải bản thể luận và nhận thức luận khác nhau.
(a) Trường phái thực chứng hay hậu thực chứng (positivism/post-positivism) lý giải thực tại là sự kiện xã hội, mà bản chất của sự kiện xã hội là một thực tại khách quan, muốn đạt tới bản chất của nó thì phải sử dụng cách tiếp cận khoa học tự nhiên. Do đó, trường phái này làm cơ sở cho nghiên cứu định lượng. Trong định lượng, hai chiến lược chính là điều tra xã hội (social survey) và thí nghiệm. Về cơ bản, hai chiến lược này đều hướng tới lượng hóa vấn đề, sử dụng lý thuyết thống kê theo quy luật số lớn để diễn giải số liệu.
(b) Trường phái thứ hai là thuyết kiến tạo xã hội (constructivism) xem thực tại xã hội được tạo thành chính bởi bản thân con người sống trong đó. Do đó, khi chúng ta nghiên cứu một nhóm nào đó, thực tại chính là cái mà nhóm đó tạo thành trong quá trình sinh sống và tương tác với nhau. Để hiểu được thực tại đó, chúng ta cần phải nghiên cứu cách những con người trong nhóm đó nhìn nhận thế giới, các kinh nghiệm họ đã trải qua, các quan hệ họ xây dựng và duy trì, các vấn đề mà họ đang gặp phải. Với quan niệm này, thuyết kiến tạo xã hội là cơ sở cho xây dựng cách tiếp cận nghiên cứu định tính. Trong cách tiếp cận nghiên cứu định tính, có nhiều chiến lược nghiên cứu, ví dụ điền dã dân tộc học (ethnography), lý thuyết từ cơ sở (grounded theory methods), nghiên cứu trường hợp (case studies), nghiên cứu tường thuật (narrative studies), hiện tượng luận (phenomenology), phương pháp luận dân dã (ethnomethodology),... Mỗi chiến lược này bao gồm cách thức đặt câu hỏi, chọn mẫu, thu thập dữ liệu (phương pháp chủ đạo, độ dài ngắn, số lượng), cách thức làm sạch, và diễn giải dữ liệu khác nhau. Các phương pháp thu thập thông tin phổ biến như phỏng vấn, quan sát tham dự, phỏng vấn nhóm, nghiên cứu tài liệu, v.v. sẽ được sử dụng một cách linh hoạt, với yêu cầu khác nhau.
(c) Trường phái thứ 3 là chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) cho rằng điều quan trọng không phải phương pháp, mà là ở vấn đề nghiên cứu – hay là một thực tại xã hội nào đó. Do đó, để hiểu được thực tại đó thì nhà nghiên cứu có thể sử dụng bất kỳ phương pháp nào hiệu quả, từ đây xây dựng ra cách kết hợp định tính định lượng trong thiết kế, thu thập, lý giải thông tin - chính là mixed methods approach. Trong chiến lược nghiên cứu hỗn hợp, nhà nghiên cứu có thể sử dụng song song định lượng và định tính (concurrent), hay tuần tự cái trước cái sau (sequential), hay biến đổi (transformative) sử dụng một thấu kính lý thuyết và sử dụng linh hoạt định lượng và định tính.
(d) Trường phái cuối cùng là thuyết biện hộ và sự tham gia. Trường phái này chú trọng vào việc thay đổi (change-oriented), gắn với chính trị. Do đó nghiên cứu theo trường phái này cần phải tạo ra cơ hội để thay đổi vấn đề nào đó của thực tại thông qua việc cho phép người tham gia nói lên tiếng nói của mình thông qua các phương pháp vận động đặc biệt, tổng hợp và chuyển tiếng nói đó tới tới các nhà lập chính sách, nhằm tạo ra những kết quả có lợi cho các nhóm đó trên thực tế. Trường phái này là cơ sở cho các nghiên cứu phát triển có sự tham gia ví dụ như sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (PRA – participatory rapid assessment) ví dụ như bản đồ cộng đồng, transect walk, seasonal calendar,... Trong nghiên cứu có sự tham gia, định tính thường được sử dụng, nhưng không loại trừ việc sử dụng các phương pháp định lượng để kiểm đếm, đo lường.

[Học bổng] - Kỳ 8: Hỏi nhanh đáp gọn - Kinh nghiệm Úc và New Zealand


Vừa qua, mình nhận được một số câu hỏi của các bạn liên quan đến apply học bổng PhD. Dưới đây là tổng hợp một số câu hỏi về điều kiện ứng tuyển. Hy vọng sẽ hữu ích cho các bạn đang quan tâm.

Thesis

1. Em vừa mới học thạc sĩ và chưa có ý định học PhD, em có nên làm thesis không?


Rất nên. Một là vừa học được từ việc làm một dự án nhỏ. Hai là có thesis thì dễ xin học bổng PhD.

2. Thesis chiếm bao nhiêu phần trăm của chương trình thạc sĩ thì đủ?

Tùy thuộc từng trường/khoa yêu cầu. Đối với khóa thạc sĩ 2 năm, một minor thesis thường chỉ cần làm trong một học kỳ (khoảng 4,5 tín chỉ). Major thesis làm trong hai học kỳ với tổng số khoảng 9 tín chỉ. Một số trường yêu cầu thesis hoặc hợp phần nghiên cứu cần ít nhất 25% tổng số tín chỉ. Mình nghĩ đây là mức minimum. Tỉ lệ cao hơn thì càng tốt, tuy nhiên cần chú ý vì rủi ro nếu điểm thesis thấp có thể kéo điểm cả khóa xuống.

3. Điểm thesis của em không đạt loại giỏi thì có được không?

Rất khó. Yêu cầu của các học bổng hầu hết là phải có thesis đạt loại giỏi (Distinction, hay có nơi gọi là Honour Class 2A) trở lên. Nếu đạt High Distinction thì càng tốt.

Điểm GPA

4. Điểm GPA của em ở thạc sĩ không đạt được loại giỏi thì có ứng tuyển được không?

Không được hoặc rất khó. Vì một trong tiêu chí hàng đầu của hầu hết các học bổng PhD là GPA của thạc sĩ phải đạt ít nhất là hạng Giỏi (Distinction).

5. Nếu GPA của em ở Đại học chỉ được khá (Credit) thì em có cơ hội apply học bổng PhD không?

Nếu đó là bằng Honour, thì rất khó vì họ cũng yêu cầu điểm GPA của Honour từ hạng Giỏi trở lên (Distinction). Được, nếu bạn có bằng Thạc sỹ và điểm GPA đạt loại Giỏi.

6. Làm cách nào để apply thành công với điểm GPA chỉ đạt hạng Khá hoặc thấp hơn?

Rất khó để apply. Tuy nhiên, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ nếu bạn thỏa mãn các điều kiện như sau:
- Có sự đỡ đầu của giáo sư – người đứng đầu dự án và là người xin được fund cho dự án đó, ủng hộ, giới thiệu hoặc trực tiếp tuyển cho lab của mình.
- Có thư giới thiệu mạnh của giáo sư đầu ngành/người có uy tín cao.
- Quan trọng nhất, bản thân mình phải bù đắp lại bằng:
o (i) điểm GPA thấp bằng luận văn phải đạt hạng Giỏi, thậm chí xuất sắc
o (ii) có nhiều xuất bản phẩm trên tạp chí xếp hạng cao (ví dụ rank Q1, hoặc tạp chí có impact factor đầu ngành)
o (iii) có kinh nghiệm dự án nghiên cứu, xin fund.

Bằng cấp


7. Em chưa có bằng thạc sĩ thì có apply được học bổng Tiến sĩ không?

Được, với điều kiện phải có bằng Honour hoặc tương đương với bằng Honour, được hệ thống giáo dục Úc/New Zealand công nhận.

8. Em muốn apply PhD mà bằng thạc sĩ của em là Master by coursework thì có được không?

Được, với điều kiện phải có hợp phần thesis. Xem phần thesis.

9. Khi xét tuyển hồ sơ PhD, họ sẽ yêu cầu nộp bằng và bảng điểm đại học hay thạc sĩ?

Cả hai.

10. Bằng và bảng điểm Đại học hay Thạc sĩ sẽ được coi trọng hơn trong apply học bổng PhD?

Họ sẽ coi trọng bằng Thạc sĩ hơn.

11. Nên học Master by Coursework hay Master by Research?

Một, nếu bạn không học Bachelor ở nước ngoài, thì nên học Coursework có hợp phần thesis. Vì học như vậy cho phép bạn học nhiều môn lựa chọn, thu được nhiều kiến thức hơn.
Hai, nếu bạn đã học Bachelor ở nước ngoài mà bằng này không tương đương Honour, thì có thể Master by Research phù hợp. Vì nó tập trung 2 năm chỉ làm một dự án nghiên cứu, giúp bạn tăng trình nghiên cứu và có tiềm năng xuất bản phẩm, tăng cơ hội vào PhD.

* Chú ý: ở đây mình dịch hệ thống điểm Úc như sau (các bạn có thể dịch khác):
Đối với các trường sau: Adelaide, Flinders, QUT, UNSW,[12]
Sydney, hệ điểm là:
- 85 - 100: High Distinction (xuất sắc)
- 75-84: Distinction (giỏi)
- 65-74: Credit (khá)
- 50-64: Pass (trung bình)
- Below 50: Fail (trượt)
Đối với các trường như ANU, Monash,
RMIT, Melbourne thì hệ điểm tính như sau:
- 80 or more: HD or First Class Honours (H1) (trường Melbourne): Xuất sắc
- 70 – 79, Distinction or Second Class Honours 2A (H2A): Giỏi
- 60 - 69, Credit hoặc 65-69 (Melbourne) Third Class Honours 2B (H2B): Khá
- 50 – 59, pass hoặc đối với Melbourne từ 50-64 là Pass: Trung bình


***

Mời các bạn đón đọc chuỗi bài về kinh nghiệm ứng tuyển học bổng: 

Kỳ 1 - Tính mục đích 

Kỳ 1.1 -  Sense of purpose (English Version) 

Kỳ 2 - Thành phần cơ bản của học bổng PhD

Kỳ 3 - Chuẩn bị giấy tờ, tài liệu 

Kỳ 4 - Xin thư giới thiệu 

Kỳ 5 - Viết đề cương nghiên cứu 

Kỳ 6 - Chọn và liên lạc giáo sư hướng dẫn

Kỳ 7 -  Các lỗi logic cơ bản khi ứng tuyển học bổng

Kỳ 8 - Hỏi - Đáp kinh nghiệm đầu vào 

[Học bổng] - Kỳ 7: Các lỗi logic cơ bản khi ứng tuyển học bổng

Tư duy logic là gì? 

Mình chưa từng nghĩ mình sẽ đi làm mentor cho các bạn đi ứng tuyển học bổng. Nhưng sau bài chia sẻ kinh nghiệm của bản thân về apply học bổng năm 2017, nhiều bạn nhờ mình tư vấn hoặc duyệt hồ sơ. Rồi dần xem việc mentor là một công việc nghiêm túc. Quá trình tiếp xúc với các bạn mentees ở cả bậc thạc sỹ và tiến sỹ hai năm qua cho phép mình tích lũy được chút kinh nghiệm trong nhìn nhận các yếu điểm dẫn tới sự thất bại của một hồ sơ. Một trong những điểm yếu thường xuyên xuất hiện nhất, và theo mình là trở ngại lớn nhất của một hồ sơ xin học bổng, đó chính là thiếu tư duy logic. Rất tiếc các bài viết chia sẻ kinh nghiệm hay hướng dẫn xin học bổng hiện nay lại rất ít đề cập đến tầm quan trọng của tư duy logic.

Tư duy logic (logical thinking) được hiểu là ‘là một cách sắp xếp và sử dụng thông tin. Các vấn đề hoặc tình huống liên quan đến tư duy logic đòi hỏi tư duy cấu trúc (structure), nắm rõ các mối quan hệ giữa các sự kiện (facts), và khả năng tạo ra các liên kết (chains) trong lập luận để tạo ra ý nghĩa’ (Karl Albrecht 1984: 3). Tác giả này gọi tư duy logic đơn giản hơn là khả năng suy nghĩ có trật tự (sequential thought). Tức là khả năng tư duy từng bước rõ ràng, mạch lạc. Cứ tưởng tượng bạn có một một đống hỗn độn đầy ắp dữ kiện, tư duy logic là chìa khóa cho phép bạn nhìn thấu quy luật kết nối bên dưới bề mặt, và sắp xếp chúng trong một trật tự ngăn nắp, phản ánh một hình hài nhất định.
Tư duy logic có vai trò nền tảng đối với tất cả các bước và các nhiệm vụ trong việc ứng tuyển học bổng, bắt đầu từ việc tập hợp hồ sơ, xây dựng các thành phần của hồ sơ như viết SOP (statement of purpose), chuẩn bị LOR (letter of recommendation), làm các bài luận (essays), viết đề cương nghiên cứu (research proposal), cho tới việc nộp hồ sơ, và chuẩn bị phỏng vấn. Có nghĩa là, bạn không chỉ cần thể hiện tư duy logic ở việc viết, mà còn trong phỏng vấn, và ở cả việc thực hiện các tác vụ mang tính văn phòng (sắp xếp, tập hợp file, hay format văn bản).
Bài viết này tương đối cơ bản, dành cho các bạn ứng tuyển học bổng cả bậc thạc sỹ và tiến sĩ. Dĩ nhiên, các bạn ứng tuyển các học bổng ngắn hạn khác cũng có thể tìm thấy đôi điều có ích.

Các lỗi logic cơ bản thường mắc phải

Sau đây, mình tổng kết thành 7 lỗi logic cơ bản khiến hồ sơ của bạn dễ thất bại.

1. Không tuân theo trật tự đã cho

Cứ tưởng tượng, bạn vào nhà hàng và gọi điểm tâm và món chính, nhà hàng mang ra món chính rồi sau đó mới điểm tâm. Đó là một lỗi logic sơ đẳng.
Công việc ứng tuyển học bổng cũng vậy. Luôn đầy những nhiệm vụ cần phải sắp xếp tác vụ và mọi thứ theo một trật tự logic đã cho – tức theo yêu cầu của học bổng. Lấy ví dụ một công việc nhẹ nhàng nhất là tập hợp các bản mềm cho một bộ hồ sơ. Với việc hiện nay các hồ sơ chủ yếu nộp online, các thành phần của hồ sơ đều có thể nộp dưới dạng bản mềm (file điện tử). Nếu yêu cầu của học bổng là gửi hồ sơ của bạn tới địa chỉ email của hội đồng học bổng thì việc bạn sắp xếp các files này trong thư gửi lại là rất quan trọng. Không cẩn thận, bạn có thể bị loại ngay từ vòng ngày.
Ví dụ: Một học bổng PhD yêu cầu bạn phải nộp một hồ sơ gồm các thành phần sau: certificates and academic transcripts, certified proof of citizenship status, proof of residency status, evidence of English language proficiency, contact details for two Academic Referees, research case, research proposal, and list of research output.
Khi nộp lại bạn được yêu cầu gửi một tập (folder) tài liệu gồm các thành phần trên. Nhiều bạn không chú ý đến việc đơn giản này và gửi lại một folder để các file lẫn lộn. Máy tính sẽ tự động sắp xếp các file theo bảng chữ cái. Và như thế người nhận sẽ không nhìn thấy được một trật tự các file như họ yêu cầu. Điều này khiến họ rất mất thời gian để check xem liệu bạn có bị thiếu file nào không. Và nếu họ bỏ qua gửi lên hội đồng cao hơn, bạn có thể bị chấm thất bại.
Do đó, trong một folder, bạn cần biết sắp xếp nó thành thứ tự như học bổng đưa ra. Chẳng hạn, cách đánh số đơn giản giúp bạn duy trì trật tự file theo đúng yêu cầu học bổng:
1_Certificates and academic transcripts
2_Proof of citizenship status
3_Proof of residency status
4_Evidence of English language proficiency
5_Referees contact details_Mr A & Ms B
6_Research Case
7_Research Proposal
8_Research Output
Với cách sắp xếp có đánh số, các bạn có thể zip toàn bộ files trong hồ sơ và gửi đi. Khi gửi đi, người nhận sẽ nhận được bộ hồ sơ mà các files được sắp xếp theo đúng trật tự họ yêu cầu.
Bên cạnh việc rất đơn giản như sắp xếp file điện tử, lỗi không tuân theo trật tự định sẵn còn diễn ra ở nhiều hạng mục khác của học bổng chẳng hạn như việc làm bài luận. Đề bài cho sẵn những ý nào, theo trật tự gì là tương đối rõ, thì việc bạn viết bài luận để làm rõ những điểm đó cần theo trật tự đưa ra. Vấn đề này mình sẽ bàn sâu thêm ở một bài khác.

2. Sắp xếp không theo trình tự thời gian

Trình tự thời gian nói về việc sắp xếp sao cho cái nào sinh ra trước thì bỏ trước, cái nào sinh ra sau thì bỏ sau, hoặc ngược lại.
Chẳng hạn, chúng ta xem xét ví dụ sau. Một bạn ứng tuyển bậc PhD viết các nhiệm vụ đã thực hiện cho một vị trí gọi là ‘Facilities Assistant’ trong CV. Lúc đầu bạn ấy viết thế này:
 (01) Supervision of the CPA Centre including room set-up and event coordination.
 (02) Maintaining Audio-Visual equipment during events and meetings and acting as a trouble-shooter.
 (03) Meeting and greeting attendees during events.
 (04) Acting as a First-Aid and Fire Warden to ensure all OH&S and emergency procedures are followed.
Để thấy vấn đề về logic ở đây, bạn cần phải tìm ra cơ sở chung của các nhiệm vụ trên. Nếu các bạn chú ý, có thể thấy xuyên suốt các nhiệm vụ của bạn ý việc liên quan đến tổ chức sự kiện – events (ngoại trừ ý số 04). Một event thường có 3 giai đoạn chính – chuẩn bị, quản lý lúc event diễn ra, và quản lý sau event. Vậy 4 ý này có vấn đề gì?
- Ý 01 liên quan đến giai đoạn chuẩn bị (phòng ốc) cho event (1.1), nhưng lại bao gồm cả điều phối event (1.2)
- Ý 02 liên quan đến các vấn đề điều phối event gồm các vấn đề bảo quản và xử lý sự cố về equipment.
- Ý 03 liên quan đến khởi đầu event – đón tiếp khách mời.
- Ý 04 liên quan đến một nhiệm vụ khác không phải event.
Như vậy, bạn ấy đang vi phạm logic thời gian. Ý một về giai đoạn chuẩn bị ở đầu là đúng. Ý hai nói về điều phối event – tức giai đoạn giữa. Còn ý ba là thuộc giai đoạn khi event mới bắt đầu diễn ra, đáng lẽ cần được đặt trước ý hai thì lại để sau. Vậy, theo đúng trình tự thời gian ta có:
 (01=I) Prepared for events including room set-up
 (03=II) Coordinated events including greeting and meeting attendees.
 (02=III) Maintained Audio-Visual equipment during events and meetings.
 (04=IV) Acted as a First-Aid and Fire Warden to ensure all WHS and emergency procedures are followed.
Có một vài thành phần học bổng, chẳng hạn như khi bạn liệt kê các bằng cấp hoặc dự án đã làm trong CV, thì thông thường người ta liệt kê các bằng cấp hoặc các dự án mới đạt được trước, rồi đi lùi về các mốc thời gian cũ hơn.

3. Không đồng chất

Khi chúng ta trình bày các dữ kiện, nhóm vấn đề, chúng ta cần chú ý đến việc làm sao tạo ra sự đồng nhất giữa các thành phần ngang hàng. Một trong những lỗi logic phổ biến là cách sử dụng ngôn ngữ không thống nhất (inconsistent).
Trong ví dụ ở mục 2, có thể thấy, item 01 khác biệt với các items còn lại vì bạn ấy sử dụng danh từ (supervision) để mô tả nhiệm vụ, trong khi các items còn lại bắt đầu bằng danh động từ (V-ing). Vấn đề không phải cách dùng nào là sai, mà là dùng không thống nhất. Lỗi này tuy nhỏ, nhưng lại khá phổ biến và có thể đập ngay vào mắt người đọc.
Các lỗi tương tự như sử dụng lẫn lộn giữa Anh Mỹ và Anh Anh, hay lúc thì bôi đậm lúc thì in nghiêng, lúc đặt heading lúc không, v.v., nếu không phải phục vụ mục đích ‘highlight’ nào đó, thì hầu như đều tạo ra ấn tượng của không thống nhất và có thể ảnh hưởng đến chất lượng của hồ sơ của bạn. Để sửa lỗi này thì các bạn cần chọn quá trình chỉnh sửa nhiều lần và nhờ người khác đọc hộ (proofread) để phát hiện lỗi.

4. Sắp xếp không ngang hàng

Khá gần với đến việc không đồng chất là việc sắp xếp không ngang hàng do xác định sai quan hệ tập hợp. Chẳng hạn, một bạn ứng tuyển thạc sĩ liệt kê các kỹ năng của bạn ấy như sau:
 Leadership
 Interpersonal
 Teamwork
 Critical thinking
 Intemediate use of Epidata
 Proficient use of MS Office (Word, PowerPoint, Visio, Excel)
Ngoài vấn đề về tính thống nhất (lúc thì có đánh giá về trình độ sử dụng – intermediate use, proficient use, lúc thì không), thì bạn này còn gặp phải vấn đề xác định sai quan hệ logic. Đáng lẽ A là tập con của B thì lại đặt A ngang hàng với B. Interpersonal skills (các kỹ năng liên cá nhân) là một tập hợp gồm nhiều các kỹ năng mềm gồm cả lãnh đạo và làm việc nhóm. Như vậy, chúng ta không thể đặt ngang hàng một tập hợp mẹ (interpersonal skill) với tập con (leadership and teamwork) được.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được hai ý cuối nói về dạng kỹ năng khác, không nằm trong interpersonal skills. Đó là các kỹ năng kỹ thuật/chuyên môn (technical skills). Do đó, điều cần thiết là phải phân biệt được các items thuộc nhóm nào, các nhóm này có quan hệ logic gì với nhau, và sau đó xếp đặt chúng vào một trật tự logic.

5. Tự giả định ngầm rằng A bằng/là B

Lỗi logic này liên quan đến việc bạn tự giả định ngầm rằng cái này bằng cái kia. Lấy ví dụ trong chương trình học bổng Chevening, khi chuẩn bị cho phỏng vấn có câu hỏi thế này: Tại sao bạn lại chọn học bổng Chevening (A)?
Một bạn trả lời: (i) Vì chính phủ Anh (B) có hợp tác với chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực XYZ nên việc học của tôi sẽ giúp tăng cường hợp tác đó; (ii) Vì các đại học Anh (C) là những đại học hàng đầu thế giới. Trong cả hai câu trả lời này, chúng ta thấy đều không hợp logic vì bạn này đã thực hiện một giả định ngầm:
• Học bổng Chevening (A) = Chính phủ Anh quốc (B)
• Học bổng Chevening (A) = Đại học Anh quốc (C)
Mặc dù học bổng Chevening có liên quan mật thiết đến chính phủ Anh quốc và đại học ở Anh quốc, nhưng các thực thể này hoàn toàn độc lập và khác nhau (A#B#C). Học bổng Chevening chỉ là một trong những chương trình/hoạt động của Chính phủ Anh quốc, và học bổng này chỉ là một trong những con đường đến đến đại học Anh quốc. Việc bạn này trả lời lý do chọn học bổng Chevening bằng cách sử dụng hai thực thể B và C là sai về logic.

6. Thiếu logic hệ thống

Nếu xem toàn bộ hồ sơ xin học bổng của bạn là một tổng thể (hệ thống) thì mỗi thành phần từ thư giới thiệu, SOP, bài luận, CV, bảng điểm và bằng cấp, các giấy chứng nhận, kinh nghiệm làm việc, hay xuất bản phẩm là một bộ phận. Các bộ phận cần kết dính với nhau một cách biện chứng, nhịp nhàng, sao cho người đọc không thấy mâu thuẫn, khó hiểu.
Tuy điều này quan trọng như vậy, nhưng nhiều bạn lại xây dựng hồ sơ một cách thiếu nhất quán và khập khiễng. Một số lỗi sau có thể tìm thấy:
- TÊN của cùng một đề tài, dự án, hoạt động để mỗi nơi một kiểu, đặc biệt là khác biệt giữa LOR, CV, cover letter;
- SOP nói bạn có kinh nghiệm liên quan đến nghiên cứu vấn đề A, nhưng trong mục kinh nghiệm nghiên cứu của CV lại không đề cập đến;
- SOP nêu lên CHUYỂN ĐỔI ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU của bạn, nhưng các tài liệu khác đặc biệt là CV không thể hiện được bước chuyển này qua các sự kiện;
- Kể về cùng một sự kiện để làm ví dụ, bài luận nói một kiểu, phỏng vấn lại nói kiểu khác;
- v.v.

7. Cách tiếp cận logic không phù hợp

Về cơ bản, để biện hộ cho lý lẽ mình đưa ra (claim), bạn có thể sử dụng hai loại logic lập luận. Một là logic diễn dịch (deductive reasoning) và hai là logic quy nạp (inductive reasoning). Logic diễn dịch là logic đi từ các nguyên lý chung tới các trường hợp cụ thể nào đó. Ví dụ:
- (1) Nhìn chung, A là một người tốt bụng. Vì:
- (2) Lúc đi trên đường, A thường giúp người già đi sang đường
- (3) A thường làm từ thiện để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.
Ở đây, ý 1 là ý chung và nó được minh chứng ra ở ý 2 và ý 3 – là các ví dụ làm sáng rõ cho ý 1.
Logic quy nạp thì ngược lại, đi từ các trường hợp cụ thể tới một kết luận chung về các trường hợp đó.
- (1) A thường làm từ thiện để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn
- (2) Lúc đi trên đường, A thường giúp người già đi sang đường
- (3) Suy ra, A là một người tốt bụng.
Sau này khi các bạn viết luận hay viết văn academic, thì bạn có thể sử dụng logic nào cũng được, miễn là các ý phải mạch lạc và chặt chẽ. Tuy nhiên, trong bối cảnh ứng tuyển học bổng, mình thường khuyên các bạn nên dùng logic diễn dịch. Vì logic này đi thẳng vào vấn đề nhanh hơn, giúp người chấm học bổng nhanh chóng nắm bắt được ý bạn muốn nói là gì (claim). Trong khi đó, logic quy nạp có thể khiến bạn đi mãi đi mãi mà chưa thấy kết luận ở đâu. Điều này càng trở nên bức thiết khi bạn trả lời phỏng vấn. Nếu bạn nói không rõ các ý và không rõ các trạng từ chỉ báo ý và từ nối chỉ báo chuyển ý thì càng làm người nghe khó nhận biết bạn đang ở đâu và vì sao bạn lại đến được kết luận như vậy.

***
Chốt lại, mặc dù mỗi người chúng ta, với nền tảng văn hóa xã hội khác nhau, có lối tư duy logic riêng, nhưng nhìn chung, chúng ta đều chia sẻ những mẫu số chung trong việc suy nghĩ và nắm bắt tri thức. Có nghĩa là các thành viên trong hội đồng xét duyệt học bổng có những điểm chung trong việc nắm bắt thông tin với chúng ta. Do đó, sử dụng tư duy logic mạch lạc để trình bày và truyền đạt ý tưởng tới họ là cách an toàn, chắc chắn nhất để họ hiểu đúng ý mình và đánh giá đúng (chưa nói đến việc đánh giá cao) phẩm chất của mình.
Và CÁI HAY CỦA TƯ DUY LOGIC LÀ BẠN KHÔNG CẦN PHẢI CÓ THIÊN PHÚ, MÀ HOÀN TOÀN CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC THÔNG QUA KIÊN TRÌ LUYỆN TẬP. Nếu chú tâm đến logic và thực hành logic kể cả trong các tình huống hàng ngày chẳng hạn như đi phơi quần áo thì phơi quần với quần, áo với áo, thì bạn dần dần sẽ có một thói quen phản xạ logic đối với các vấn đề/tình huống phát sinh. Điều này sẽ giúp bạn trở thành một ứng cử viên sáng giá hơn cho học bổng mà bạn lựa chọn. Hy vọng rằng bài viết này đã giúp bạn một phần nào đó trên con đường chinh phục ước mơ của mình. Nếu các bạn đi qua có thể góp ý dưới đây để cải thiện bài viết thì càng đáng quý.

***

Mời các bạn đón đọc chuỗi bài về kinh nghiệm ứng tuyển học bổng: 

Kỳ 1 - Tính mục đích 

Kỳ 1.1 -  Sense of purpose (English Version) 

Kỳ 2 - Thành phần cơ bản của học bổng PhD

Kỳ 3 - Chuẩn bị giấy tờ, tài liệu 

Kỳ 4 - Xin thư giới thiệu 

Kỳ 5 - Viết đề cương nghiên cứu 

Kỳ 6 - Chọn và liên lạc giáo sư hướng dẫn

Kỳ 7 -  Các lỗi logic cơ bản khi ứng tuyển học bổng

Kỳ 8 - Hỏi - Đáp kinh nghiệm đầu vào