Showing posts with label Research Methodology. Show all posts
Showing posts with label Research Methodology. Show all posts

[Phương pháp] - Đánh lộn và võ thuật, hay nhìn ngắm và quan sát định tính

Bản thân chúng ta ai sinh ra cũng có khả năng tự bảo vệ mình. Nghĩa là nếu một kẻ nào đó tấn công bạn, bạn cũng có thể dùng khả năng bẩm sinh của mình đánh ại người ta. Thắng thua hầu như là câu chuyện của sức mạnh, nhanh nhẹn và khả năng xử lý tình huống tự nhiên của bạn. Nhưng nếu bạn chỉ sử dụng sức mạnh và khả năng tự vệ bẩm sinh, còn kẻ tấn công được trui rèn trong võ thuật, được chuẩn bị tốt các kỹ năng chiến đấu nhằm hạ gục đối thủ, thì khả năng thua của bạn là rất lớn. Mấu chốt ở đây là cách đánh của bạn chỉ là đánh lộn (tùng phèo), còn kẻ thù của bạn có chiêu thức, chiến thuật rõ ràng.

Cũng như sự khác biệt giữa võ thuật thực chiến và đánh lộn, quan sát định tính (qualitative observation, ở bài viết này được xem tương đồng với ethnographical observation (quan sát dân tộc học) hay là participant observation (quan sát tham dự))  cũng khác với nhìn ngắm thông thường. Một trong những nhận thức sai lầm đối với những người mới bắt đầu quan sát định tính đó là họ thường xem phương pháp này là một kỹ năng ‘tự nhiên’, theo nghĩa ai sinh ra cũng có thể quan sát định tính. Vì sao? Vì họ nghĩ để quan sát, họ chỉ cần có đầy đủ giác quan, có mắt để nhìn, tai để nghe. Vậy là đủ. Nếu vì vậy mà đi đến kết luận rằng, ai cũng có thể làm được quan sát định tính thì sẽ thật sai lầm. Các giác quan chỉ là các điều kiện cơ sở, chứ không phải là các điều kiện đủ để thực hành quan sát định tính. Vì quan sát định tính (với tư cách là một phương pháp khoa học) hoàn toàn khác với quan sát trong đời sống hàng ngày. Chúng ta sẽ nhận ra việc chúng ta quan sát hàng ngày chẳng qua chỉ là nhìn ngắm bâng quơ mà thôi.

Nhưng cái gì là điểm mấu chốt phân biệt quan sát định tính và quan sát hàng ngày?

Sự khác biệt chính là sự chuẩn bị. Và cũng giống như một võ sĩ boxing phải tập luyện cho trận đấu của họ bằng cách đấm vào bao cát hay thực hành nhuần nhuyễn các đòn tấn công và phòng thủ, nhà nghiên cứu sử dụng quan sát định tính cũng cần phải thực hành thuần thục kỹ năng quan sát nghiên cứu. Loui Pasteur nói, 
‘[[t]rong lĩnh vực quan sát, cơ hội chỉ đến với một đầu óc được chuẩn bị’
Patton (2002, tr.260) viết:
‘Khảo sát khoa học sử dụng phương pháp quan sát đòi hỏi sự tập huấn có quy tắc và sự chuẩn bị tỉ mỉ.’
Trong cuốn sách của mình, Patton đã khái quát các nội dung của việc tập huấn nhằm tạo ra người quan sát có kỹ năng, đó là:
–       ‘học cách chú ý, tìm hiểu để thấy được cái ở đó để được nhìn thấy, và để nghe cái ở đó để được nghe;
–       thực hành viết mô tả;
–       đạt tới sự kỷ luật trong ghi chép thực địa;
–       biết làm thế nào để phân biệt chi tiết từ các tiểu tiết [tức không quan trọng] nhằm đạt tới cái trước mà không bị quá tải bởi cái sau;
–       sử dụng các phương pháp tỉ mỉ nhằm hợp lệ và tam giác đạc [tức kiểm tra chéo] các quan sát;
–       báo cáo về ưu cũng như khuyến điểm của cách nhìn của bản thân, cái mà đòi hỏi sự tự nhận thức và tự công nhận.’
(Patton 2002, tr. 260-1)

Một cán bộ quan sát định tính cũng như một cán bộ điều tra định lượng và cán bộ thống kê cần phải được tập huấn nghề nghiệp. Patton cho rằng:
‘Tập huấn để trở thành một người quan sát có kỹ năng là một quá trình không kém khắc nghiệt so với việc tập huấn để trở thành một nhà điều tra hay một nhà thống kê có kỹ năng. Người ta không ‘tự nhiên’ biết được làm thế nào để soạn các ý hỏi điều tra tốt hay để phân tích thống kê – và người ta cũng không ‘tự nhiên’ biết làm thế nào để thực hiện các quan sát nghiên cứu hệ thống. Tất cả các hình thức của khảo sát khoa học đòi hỏi tập huấn và thực hành.’(2002, tr. 261)
Ralph Waldo Emerson cho ta hình dung rõ ràng hơn về tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho quan sát: 
‘Người ta chỉ nhìn thấy cái họ được chuẩn bị để nhìn’ 
Nói cách khác nếu người ta chỉ sử dụng con mắt quan sát bình thường, không có sự chuẩn bị khoa học, thì họ sẽ không tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu khoa học. Do đó, sự chuẩn bị không chỉ bó gọn trong các kỹ năng quan sát (nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, ghi chép, v.v.). Nhà quan sát, cũng giống như một võ sĩ, phải chuẩn bị đầy đủ về tâm lý, thể lực, kiến thức, văn hóa về đối tượng và nơi sống của họ, v.v. Các yếu tố thuộc "phần mềm" này cũng quan trọng không kém so với các kỹ năng "cứng" nêu trên. Nếu không có được kiến thức và văn hóa về đối tượng nghiên cứu, nhà nghiên cứu sẽ không có được tấm "hộ chiếu" để tiến nhập vào bối cảnh nghiên cứu. Nếu không có sức khỏe và tâm lý vững vàng, họ không thể vượt qua được những thăng trầm và áp lực từ thực địa. Patton (2002, tr. 261) viết tiếp:
‘Công việc chuẩn bị có các chiều cạnh tâm thần, vật lý, trí tuệ và tâm lý học. Quan sát đối với tôi bao hàm năng lượng và sự tập trung to lớn. Tôi phải ‘bật lên’ sự tập trung đó – ‘mở ra’ đôi mắt và đôi tai khoa học của tôi, các giác quan quan sát của tôi’
Ngoài ra, như Emerson nói, chúng ta cần chú ý tới một điểm khác biệt quan trọng giữa quan sát hàng ngày và quan sát định tính, đó là thực hành quan sát tập trung. Lý Tiểu Long khi còn sống từng nói: 'Tôi không sợ người thực hành 10,000 kiểu đá, nhưng tôi sợ người tập một kiểu đá 10,000 lần'. Có nghĩa là, việc bạn tập trung vào rèn giũa một loại kỹ năng cho tốt thì hiệu quả lớn hơn nhiều việc bạn dàn trải năng lượng cho nhiều loại kỹ năng mà không mang lại hiệu quả gì.

Cũng giống như việc quan sát định tính, việc tập luyện để quan sát vào các khía cạnh mấu chốt của đối tượng nghiên cứu có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó giúp chúng ta không lãng phí thì giờ và sức lực để quan sát và ghi chép các sự kiện không liên quan và không có ý nghĩa đối với nghiên cứu. Làm thế nào để xác định được các khía cạnh mấu chốt của đối tượng nghiên cứu? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải quay lại câu hỏi nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu chứa đựng các khái niệm, mối quan hệ giữa chúng, và chủ thể chúng ta cần tìm hiểu và sử dụng quan sát để trả lời. Bên cạnh đó, chúng ta cần nhìn được các thành tố của đối tượng nghiên cứu. Chẳng hạn, Spradley (1980) cho rằng chúng ta cần tập trung vào 9 thành tố của chủ đề quan sát và mối quan hệ giữa chúng. Đó là: không gian, chủ thể hành động, hoạt động, đối tượng, hành động, sự kiện, thời gian, mục đích và cảm xúc. 
Nói tóm lại, sự chuẩn bị và tập huấn đòi hỏi người ta trước hết phải loại bỏ tư tưởng rằng kỹ năng quan sát là một kỹ năng thiên phú, một kỹ năng tự nhiên, từ đó có thể tập trung để tập huấn và chuẩn bị thật kỹ càng trước khi ra thực địa. Muốn trở thành một võ sĩ giỏi hay một người quan sát có kỹ năng, mọi chuyện tuỳ thuộc vào tập huấn và chuẩn bị.
Tài liệu tham khảo:
Patton, MQ 2002, Qualitative research and evaluation methods, New York: Sage

Spradley, J., 1980, Participant Observation, New York: Holt, Rinehart and Winston.

[Phương pháp] Chọn mẫu định tính: phản hồi các ngộ nhận

Nghiên cứu định tính ở Việt Nam vẫn là một mảnh đất ít người khai phá. Kiến thức từ phương pháp này nếu không phải được dịch từ sách vở nước ngoài, thì được tổng hợp từ kinh nghiệm của người làm nghề. Cái dở của định tính là khó có gì chắc chắn. Dựa vào cái bất định này mà nhiều tổng hợp giới thiệu phương pháp nghiên cứu này có chứa đựng những nhầm lẫn tai hại, nhưng ít bị phát hiện và mổ xẻ. Slides do một tác giả từ Đại học Y Dược thành phố HCM có thể xem là một trong những trường hợp này. Bạn đọc có thể truy cập vào slide ở đây.



Cần phải nói, bài giảng này có rất nhiều điểm ngộ nhận, thiếu sót, thậm chí sai về định tính. Đó là cách hiểu tương đối giản đơn về nghiên cứu định tính. Chính sự giản đơn này có thể gây ra những hệ lụy khó lường khi chúng ta thực hành nghiên cứu định tính.






Vì có quá nhiều vấn đề, tôi sẽ tập trung vào vấn đề nho nhỏ của bài - mẫu định tính. Nào, chúng ta bắt đầu.
Slides bài giảng nghiên cứu định tính này viết:
“Đối tượng nghiên cứu là những người tiêu biểu nhất, đại diện nhất của vấn đề nghiên cứu”
(Xem trang 5)
Ở đây, xin phản biện ba điểm:
1. “Đại diện nhất”
Một, không có mẫu (sample) nào là mẫu “đại diện nhất”. Bản thân nghiên cứu định lượng (NCĐL) chọn mẫu trên cơ sở thống kê học cũng không dám khẳng định rằng mẫu họ chọn ra là mẫu đại diện nhất cho một quần thể/tổng thể nghiên cứu (population), đại diện hơn những mẫu chọn từ các nghiên cứu khác. Cho nên nói đại diện nhất là không hợp lý.
Hai, mẫu nghiên cứu định tính (NCĐT) không hướng tới tính đại diện. Nó không nhằm suy rộng từ mẫu (sample) ra tổng thể (population). Mặc dù, nghiên cứu định tính có tính suy rộng (generalization) nhưng chỉ là suy rộng phân tích (analytical generalization). Phần này sẽ bàn ở một bài khác vì khá dài.
2. “Những người”
Đối tượng nghiên cứu của định tính là “người”? Đúng. Nhưng chưa đủ. Đối tượng nghiên cứu của định tính có thể là người, vấn đề, văn bản, quá trình, thiết chế (giáo dục, y tế), dự án, chương trình, quốc gia, v.v.
Mà trong bản thân từ “người” cũng cần phải làm rõ. Vì chúng ta có thể nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau: cá nhân riêng lẻ, hộ gia đình, nhóm xã hội, tổ chức, cộng đồng, xã hội, quốc gia, liên quốc gia, toàn cầu, v.v.
3. “Tiêu biểu nhất”
Trước hết, cũng không có “nhất”. Rất khó để chứng minh chúng ta chọn một mẫu là “tiêu biểu nhất” trong một quần thể nghiên cứu.
Hai, nói “tiêu biểu” là đúng, nhưng chưa đủ. Tại sao chưa đủ, vì chọn mẫu định tính hướng tới rất nhiều đặc điểm của mẫu, chứ không bó buộc vào tính “tiêu biểu”.
Patton (1990) tổng hợp 16 loại chiến lược chọn mẫu. Mỗi loại chiến lược nhấn mạnh vào đặc điểm riêng của mẫu. Sau đây chúng ta sẽ bàn từng chiến lược và đặc trưng mẫu từ chiến lược đó.
1) Extreme or deviant case sampling: mẫu được chọn là mẫu cực đoan, ngoại biệt. Chẳng hạn như trường hợp ở Hà Giang tự nhiên xuất hiện một trường hợp ngoại biên, khác với phổ điểm chuẩn, thì đó là trường hợp dị biệt, cần phải nghiên cứu.
2) Intensity sampling: mẫu được chọn mà mẫu giàu thông tin, giúp cho việc hiểu biết hiện tượng nghiên cứu được tỉ mỉ, sâu sắc, nhưng không quá cực đoan.
3) Maximum variation sampling: mẫu được chọn là mẫu cho phép đa dạng hóa sự khác biệt. Chẳng hạn, khi chúng ta chọn một mẫu để nghiên cứu ảnh hưởng của một phương phá giáo dục mới tới học sinh, chúng ta có thể chọn mẫu sao cho bất cứ trẻ em ở hoàn cảnh nào cũng được chọn. Chẳng hạn đa dạng hóa theo dân tộc (Kinh, Tày, Nùng, v.v.), theo giới (nam, nữ, khác), theo bậc học và lớp học, theo nghề nghiệp cha mẹ, v.v.
4) Homogeneous samples: mẫu được chọn là mẫu tập trung, có đặc điểm tương đồng nhau, không phân biệt về thứ bậc. Chẳng hạn cùng là nhóm nữ, cùng là nhóm nam, trong đó không có ai là lãnh đạo vì lãnh đạo có thể lấn át những thành viên trong nhóm.
5) Typical case sampling: mẫu được chọn là mẫu thông thường, nằm ở xu hướng trung bình trong quần thể. Việc chọn lựa mẫu đặc trưng thường dựa vào các phỏng vấn tiền trạm đối với ngừoi cung cấp thông tin chính (key informant participant) hay số liệu điều tra sẵn có. Chẳng hạn có ba nhóm học sinh, nhóm 1 điểm xuất sắc, nhóm 2 điểm trung bình, nhóm 2 điểm yếu kém. Với dữ liệu này chúng ta có thể chọn nhóm trung bình để giúp mô tả cho những người xa lạ đặc điểm chung của quần thể chúng ta đang nghiên cứu.
6) Stratified purposeful sampling: mẫu được chọn là mẫu phân tầng chủ đích, cho phép nhà nghiên cứu xác định được các nhóm nhỏ trong mẫu và đưa ra so sánh.
7) Critical case sampling: mẫu được chọn là một mẫu đặc trưng. Mẫu này chứa đựng các đặc điểm của nhiều trường hợp khác trong quần thể, cho phép sự khái quát hóa logic. Cách thức chọn được mẫu này là phát biểu: “Nếu nhóm này có vấn đề thì chúng ta chắc chắn là tất cả các nhóm khác đều có vấn đề này”. (Patton 1990: 174). Để chọn được mẫu này chúng ta cần dựa vào sự hiểu biết sâu sắc đối với trường hợp điển hình này.
8) Snowball or chain sampling: mẫu - quả bóng tuyết hay dây xích - được chọn là mẫu được giới thiệu từ một người tham gia nghiên cứu – người có hiểu biết sâu sắc về thành viên trong quần thể chúng ta đang nghiên cứu.
9) Theory-based or operational construct sampling: mẫu được chọn là một mẫu có thể minh họa cho một phần lý thuyết nào đó.
10) Criterion: mẫu được chọn là mẫu đạt được các tiêu chí đề ra. Chẳng hạn chúng ta nghiên cứu những người bị ảnh hưởng của cơn bão A. Tiêu chí chúng ta đưa ra là hộ gia đình có nữ làm chủ hộ, hộ nghèo, sinh kế chủ yếu là đánh bắt cá.
11) Confirming and disconfirming cases: mẫu được chọn là mẫu cho phép nhà nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng để ủng hộ hay phủ nhận các phân tích ban đầu.
12) Opportunistic sampling: mẫu được chọn là mẫu cơ hội. Mẫu này dựa trên tình huống trong quá trình thu thập thông tin thực địa. Chúng ta có thể không định sẵn sẽ phỏng vấn thương lái, nhưng trên thực tế khảo sát nông dân, chúng ta lại thấy vai trò của thương lái cực kỳ quan trọng đối việc sản xuất lúa. Do đó, chúng ta sẽ điều chỉnh mẫu để bao gồm thêm nhóm đối tượng này.
13) Purposeful random sampling: mẫu được chọn là mẫu chọn ngẫu nhiên có chủ đích. Tức là trong một quần thể, chúng ta xác định được chủ đích những đặc trưng của mẫu được chọn (bằng việc đưa ra các tiêu chí lựa chọn) sau đó dựa vào danh sách mẫu để chọn ngẫu nhiên. Mục đích của việc chọn ngẫu nhiên này là tăng độ tin cậy của mẫu, chứ không phải hướng tới tính đại diện cho quần thể.
14) Politically important case sampling: mẫu được chọn là mẫu “nhạy cảm về mặt chính trị” cho phép nhà nghiên cứu thu hút được sự chú ý từ công luận, từ đó thực hiện lan tỏa kết quả nghiên cứu. Chẳng hạn, trong nghiên cứu một dự án xóa đói giảm nghèo, chúng ta chọn một địa phương có nhà lãnh đạo nổi tiếng. Với cách chọn này, nghiên cứu sẽ thu hút được công luận và có thể là chất xúc tác để chúng ta áp dụng các thành quả nghiên cứu (chẳng hạn khuyến nghị chính sách) (xem Patton 1990: 180).
15) Convenience sampling: mẫu được chọn là mẫu thuận tiện, được chọn trên cơ sở nhanh, thuận tiện, dễ dàng. Chẳng hạn trong một nghiên cứu về góc phố ở phố Cổ, chúng ta sẽ phỏng vấn bất cứ người nào chúng ta gặp trên đường. Mẫu này thường được dùng ở giai đoạn đầu của nghiên cứu.
16) Combination or mixed purposeful sampling: mẫu được chọn là mẫu được thiết kế kết hợp nhiều chiến lược chọn mẫu khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta thiết kế mẫu chọn thuận tiện ở giai đoạn đầu thực địa, sau đó dần về sau chọn mẫu thông thường (typical) sau đó chọn mẫu cực đoan (extreme). Miễn sao, chúng ta giải thích được lý do chúng ta chọn một cách logic và phù hợp.
***
Tham khảo:
Patton 1990, Qualitative evaluation and research methods.
Miles and Huberman, 1994, Qualitative data analysis: An expanded sourcebook.

[Phương pháp] KINH NGHIỆM VIẾT KỲ LẠ CỦA CLIFFORD GEERTZ



Vừa tìm được một bài phỏng vấn nhà nhân học xã hội người Mỹ Clifford Geertz (1926-2006). Bài phỏng vấn rất hay, trong đó có đoạn Geertz trả lời về cách làm việc tại thực địa và cách viết của mình. Mời mọi người cùng đọc. Ở dưới có phần dịch thô. Phần chữ trong [...] là tôi ghi chú, diễn giải.
‘Q. Would you describe your writing process? For example, do you spend substantial time gathering information and synthesizing it before you draft? Do you prepare an outline, revise extensively, use a computer? (Ông có thể mô tả quá trình viết của mình? Ví dụ, ông có dành nhiều thời gian cho việc thu thập thông tin và tổng hợp chúng trước khi viết bản thảo? Ông có chuẩn bị đề cương, có duyệt lại toàn bài, có sử dụng máy tính không?)
Clifford Geertz: I’ve spent a lot of time in the field- almost a dozen years in Southeast Asia and North Africa- where I don’t do any writing at all. I can’t write in the field. I write a lot of field notes, but I can’t compose anything. I once started to write a book review in the field, but that didn’t work. I just can’t do it. I think there’s a much greater separation in anthropology, especially among field anthropologists, than in a lot of social sciences between the research and the writing– at least as I do it. You do two or two-and-a-half years in Java in which all you do is live with the people, write down everything, and try to figure out what the hell is going on; then you come back and write-out of the notes, out of your memories, and out of whatever is going on in the field. So, for me at least, it’s a fairly divided life. I don’t write in the field; I write after I return. Mostly, here I write and there research.
(Tôi dành nhiều thời gian trên thực địa – hầu như mười hai năm ở Đông Nam Á và Bắc Phi – nơi mà tôi chẳng viết gì cả. Tôi không thể viết ở thực địa. Tôi viết nhiều ghi chú thực địa, nhưng tôi không thể biên soạn bất cứ thứ gì. Tôi đã từng bắt đầu viết một tổng quan sách ở thực địa, nhưng nó không thực hiện được. [Ở đây Geertz phân biệt viết ghi chú – mô tả lại, và viết nghiên cứu – tổng hợp, phân tích]. Tôi chỉ không làm được điều đó. Tôi nghĩ có một sự phân biệt giữa việc nghiên cứu và việc viết lách lớn hơn trong nhân học, đặc biệt là các nhà nhân học thực địa so với nhiều ngành khoa học xã hội khác – ít nhất là như tôi làm. Bạn dành hai hoặc hai năm rưỡi ở Java trong đó tất cả những điều bạn làm là sống với người dân, viết lại tất cả, và cố gắng tìm hiểu cái quái gì đang diễn ra ở đó; sau đó bạn trở về và viết – từ những ghi chú, từ bộ nhớ của bạn, và từ bất cứ cái gì xảy ra ở thực địa. Vậy, đối với tôi, ít nhất đó là một đời sống được phân chia rõ ràng. Tôi không viết ở thực địa; tôi viết sau khi tôi trở về. Hầu như là, tôi viết ở đây, và nghiên cứu ở đó [thực địa]. [Như vậy, ý của Geertz chính là, ở thực địa chỉ làm duy nhất một việc: nghiên cứu – tức tìm hiểu xem bản chất của hiện tượng, sự việc nó như thế nào. Còn việc viết lách, tổng hợp, phân tích là dành cho ở văn phòng. Nên khi Geertz viết là tôi không viết ở thực địa thì không phải là không đụng cái gì tới viết lách, mà thực tế là viết ghi chú hàng ngày – một công việc nặng nhọc mà người thực địa hay lười]
Clifford Geertz: As far as how I write, there’s no single answer. I hesitate to confess this in public because I think it’s a very bad way to do things, but I’ll do it anyway: I don’t write drafts. I write from the beginning to the end, and when it’s finished it’s done. And I write very slowly. That may seem odd, because I’ve written a lot, but I’ve often been in situations like this one here in Princeton where I’ve had a lot of time to write. I never leave a sentence or a paragraph until I’m satisfied with it; and except for a few touch- ups at the end, I write essentially one draft. Once in a while people ask me for early drafts, but these drafts just don’t exist. So I just go from line one to line X-even in a book. I have an outline, especially if it’s a book, but I hardly pay attention to it. I just build it up in a sort of craft- like way of going through it carefully, and when it’s done it’s done. The process is very slow. I would not advise that other people write this way. I know people who can write a first draft and not care whether it’s idiotic. They’ll write “blah, blah, blah,” and put zeros to hold space for something to be filled in later. Good writers do this. I wish I could too, but for reasons that are probably deeply psychological, it’s impossible. I usually write about a paragraph a day, but at least it’s essentially finished when it’s done. And all of this is not due just to the computer, because I’ve only used the computer for a year or so. I write by hand; even now I write by hand. I just type text in to the computer so I can print it out and read it. ‘
(Ở mức độ cách thức viết của tôi, nó không có một câu trả lời riêng nào. Tôi do dự tuyên bố điều này công khai vì tôi nghĩ nó là một cách rất tệ để làm việc nhưng dù sao tôi luôn làm như vậy: Tôi không viết các bản thảo. Tôi viết từ bắt đầu cho tới lúc kết thúc, và khi nó kết thúc thì nó hoàn thành. Và tôi viết rất chậm. Điều này dường như lạ, vì tôi đã viết rất nhiều, nhưng tôi thường ở trong những tình huống như kiểu như ở Princeton nơi tôi có rất nhiều thời gian để viết. Tôi không bao giờ bỏ một câu văn hoặc một đoạn văn cho tới khi tôi cảm thấy hài lòng với nó; ngoại trừ một vài bổ sung sau cùng, cơ bản tôi viết một bản thảo. Đã từng có người hỏi tôi về một vài bản thảo đầu tiên, nhưng những cái đó không có. Vì vậy tôi chỉ đi từ dòng một tới dòng mười – thậm chí trong một cuốn sách. Tôi có một đề cương, đặc biệt là nếu đó là một cuốn sách, nhưng tôi hiếm khi chú ý tới. Tôi chỉ xây dựng trong một cách để nhìn xuyên suốt nó một cách cẩn thận, và khi nó hoàn thiện là xong. Quá trình này rất chậm. Tôi không khuyên người khác viết cách đó. Tôi biết người ta có thể viết trước một bản thảo và không quan tâm liệu rằng nó ngu ngốc không. Họ có thể viết ‘cái này, cái kia’ và để những khoảng trống để giữ không gian cho những cái khác được bổ sung sau này. Những người viết tốt làm vậy. Tôi mong tôi có thể làm như vậy, nhưng vì những lý do có thể hết sức tâm lý học, nó không thể được. Tôi thường viết khoảng một đoạn một ngày, nhưng chí ít thì nó gần như hoàn chỉnh khi kết thúc. Và tất cả việc này không bằng máy tính, vì tôi chỉ mới sử dụng nó khoảng một năm thôi. Tôi viết bằng tay; thậm chí giờ cũng vậy. Tôi chỉ đánh máy vì tôi có thể in ra và đọc nó).
[Rõ ràng, mỗi người có một cách viết khác nhau. Không ai có thể sao chép cách viết của người khác. Vì quá trình viết là quá trình đem tư duy đặt trên mặt giấy, là hình thể hoá tư duy bằng ngôn ngữ. Quá trình đó ở mỗi người khác nhau. Nhưng, cái ta học được từ Geertz là sự chú tâm đối với từng câu văn, từng đoạn văn. Nhiều người viết cả câu dài, nhưng tối nghĩa, lủng củng và chẳng thể hiện được điều gì. Cũng có người viết cả đoạn, cả bài dài mà thiếu logic, lộn xộn. Do đó, ta không chỉ phải có trách nhiệm đối với cả bài viết mà phải ý thức được điều đó đối với từng từ, từng câu mình viết ra. Đó thực sự là cách làm việc khoa học.]
Tài liệu:
The social scientist as author: Clifford Geertz on ethnography and social construction (Olson, Gary A., interviewer), in: Journal of Advanced Composition, vol. 11 no. 2 (1991), pp. 245-268.

[Phương pháp] Không nằm trong chăn sao biết chăn có rận: sự phân biệt giữa định lượng và định tính



Khi nghĩ đến định tính và định lượng, chúng ta thường chỉ nghĩ đây là hai phương pháp nghiên cứu khác biệt nhau. Thực tế, sự phân biệt giữa định tính và định lượng cần được đặt trong một chuỗi logic bắt đầu từ sự khác biệt trong hệ hình hay thế giới quan triết học (paradigms), góc nhìn lý thuyết (theoretical perspectives), phương pháp luận (methodologies), tới các phương pháp cụ thể (methods). 

Định lượng lấy thực chứng luận (positivism) làm thế giới quan dựa trên chủ nghĩa khách quan luận (objectivism) (Crotty 1998). Chủ nghĩa khách quan luận là một dạng nhận thức luận (epistemology) cho rằng 'sự vật tồn tại như những thực thể có ý nghĩa, tồn tại độc lập với nhận thức và kinh nghiệm, và chúng có sự thực và ý nghĩa (truth and meaning) tồn trọng trong chúng như là các đối tượng (objects) (vì vậy sự thực và ý nghĩa này 'khách quan')' (Crotty 1998). Và do đó, quan điểm thực chứng luận cho rằng chúng ta có thể 'KHÁM PHÁ' đến bản chất của sự vật, hiện tượng 'NGOÀI ĐÓ' bằng cách sử dụng phương pháp khách quan khoa học, nhằm đo đếm và lượng hóa các thuộc tính và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Trên nền tảng thế giới quan đó, phương pháp định lượng được phân thành hai loại tiếp cận chính – hay có thể gọi là hai kiểu phương pháp luận cụ thể - là điều tra xã hội (social survey) và thực nghiệm xã hội (social experiment). Xã hội học quen thuộc hơn với cách điều tra xã hội sử dụng công cụ là bảng hỏi, trong khi tâm lý học và tâm lý học xã hội sử dụng nhiều các thực nghiệm xã hội. Điều tra sử dụng bảng hỏi được xem là quá trình diễn dịch mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu để cụ thể hóa thành hệ thống các chỉ báo và câu hỏi đóng (closed-ended questions) có thể hiểu được một cách thống nhất giữa người tham gia và trả lời được với các phương án cho sẵn, hướng đến tìm kiếm và đo lường mối quan hệ giữa các biến số bằng các kỹ thuật và lý thuyết thống kê.

Định tính lấy thuyết kiến tạo (constructivism) làm cơ sở đề nhìn nhận thế giới xã hội. Thuyết kiến tạo  cho rằng hiện thực không tồn tại độc lập với nhận thức và kinh nghiệm; đúng hơn, chúng là sản phẩm của nhận thức và kinh nghiệm, hay là kết quả của các thành viên xã hội 'tham gia tương tác với các thực tế trong xã hội' (Crotty 1998). Và cùng một sự vật, hiện tượng, các thành viên xã hội có thể phát triển các ý nghĩa khác nhau (Crotty 1998). Điều này lý giải vì sao trong phân tích định tính thường không có một mô hình duy nhất giải thích sự vật, hiện tượng; ngược lại, cái hay của định tính là trình bày nhiều nhận thức khác biệt thậm chí đối lập nhau về sự vật, hiện tượng đó. Do đó, chúng ta chỉ có thể hiểu được hiện thực bằng cách tìm hiểu cái ý nghĩa xã hội mà con người (đối tượng nghiên cứu) quy gán cho nó. Mà muốn hiểu ý nghĩa xã hội của một nhóm xã hội nào đó, chúng ta cần phải tập sống trong hoàn cảnh, môi trường mà họ sinh ra, lớn lên, tiếp xúc với người xung quanh và trải nghiệm những vấn đề chúng ta nghiên cứu.

Không nằm trong chăn sao biết chăn có rận!

Chúng ta có thể phân tích sự khác biệt giữa định tính và định lượng từ câu “không nằm trong chăn sao biết chăn có rận”. Đó là sự khác biệt từ xuất phát điểm. Nếu như nhà định lượng sẽ đặt câu hỏi là: trong chăn có rận không? Nếu có thì có bao nhiêu con? Rận ảnh hưởng đến tâm lý của người nằm trong chăn như thế nào? Có cách nào để đo lường biểu hiện của họ để phán đoán chăn có rận hoặc có bao nhiêu con hoặc loại rận nào không? Nhà định tính sẽ quan tâm đến các câu hỏi: nằm trong chăn có rận thì cảm giác như thế nào? Sự khác biệt giữa tình huống đó với việc chăn không có rận?

Và đề trả lời câu hỏi đó, nhà định lượng sẽ tìm cách đo lường từ những gì họ có thể quan sát được: Có bao nhiêu con rận xuất hiện trên cái chăn đó? Và nhà định lượng cũng đo lường cảm giác của người nằm trong chăn bằng các câu hỏi đóng với các phương án sẵn có, như họ có ngứa không? Họ ngứa ở cấp độ nào? Họ ngủ ngon không? v.v.

Trong khi đó, nhà định tính họ sẽ vào trong chăn nằm thử. Họ dùng cơ thể của mình, trải nghiệm cái cảm giác của chính người nằm trong chăn, họ sẽ tìm ra câu trả lời rằng chăn có rận không bằng cách cảm nhận những điều xảy ra trên cơ thể mình, bằng cách so sánh trải nghiệm của họ với trải nghiệm của người nằm trong chăn. Chỉ có cách tự vào trong chăn thì họ mới hiểu được tình cảnh của người nằm trong chăn có rận mà thôi. Đó là cách tốt nhất để hiểu được cảm giác mà người trong chăn có thể trải qua.

Về cơ bản, định lượng và định tính chỉ là con đường khác nhau cùng ngắm tới một đích đến. Cũng như một người mù sử dụng tay của mình để tiếp xúc và cảm nhận, trong khi người câm điếc sử dụng mắt để đoán ý nghĩa đằng sau hành động của người khác vậy.


Tài liệu tham khảo: 


Crotty 1998, The foundations of social research: Meaning and perspective in the research process, Sage. 

[Phương pháp] - Kỹ thuật tam giác đạc trong nghiên cứu Khoa học Xã hội


Phép đạc tam giác (triangulation): để xác nhận hay để hoàn thiện dữ liệu?




Trước đây khi bắt đầu học về định tính, tôi nghe tên tam giác đạc, hay đạc tam giác (triangulation) thì thấy thích lắm, vì thuật ngữ có vẻ sang, vẻ lạ. Nhưng nói thật hỏi có hiểu về nó hay không thì mơ hồ, chứ chưa nói đến việc vận dụng. 

Mới đây, khi tham gia một tranh luận trên researchgate.net, mới biết kỹ thuật này thực ra đã thay đổi ý nghĩa khá nhiều, mà từ trước nay mình vẫn dùng với ý nghĩa cũ. Hình minh họa ở trên chỉ sử dụng kỹ thuật tam giác đạc ở một chiều cạnh là methodological triangulation. 



Nguồn gốc


Vốn dĩ, thuật ngữ "đạc tam giác" dùng để chỉ một kỹ thuật sử dụng trong lượng giác học và hình học, để tìm kiếm vị trí của một điểm bằng cách tạo ra các tam giác từ điểm này với các điểm đã biết (xem Wikipedia). 

Khoa học xã hội đã vay mượn và dùng nó như một ẩn dụ. Campbell (1956) sử dụng như một kỹ thuật cho phép sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu khác nhau trong một nghiên cứu đặc điểm lãnh đạo. 

Quan điểm của Denzin (1978)

Sau đó, kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi mặc dù tranh cãi về bản chất khái niệm này thì không dứt. Denzin (1978) xem kỹ thuật này như một chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực của dữ liệu (a validation strategy). Từ thời Campell, tam giác đạc đã được xem là "một cách sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong một kế hoạch giúp nhà nghiên vượt lên các thiên kiến cá nhân do việc sử dụng một phương pháp riêng" (Denzin 1978: 294). Tuy vậy, Denzin cho rằng kỹ thuật này có nhiều loại hơn là chỉ tập trung vào đạc tam giác phương pháp như định nghĩa chung này. 

***
Ông phân loại ra làm 4 loại tam giác đạc: tam giác đạc dữ liệu (data triangulation), tam giác đạc nhà nghiên cứu (investigator triangulation), tam giác đạc lý thuyết (theory triangulation), và tam giác đạc phương pháp (methodological triangulation). 


Kỹ thuật đầu tiên là kỹ thuật đối chiếu các nguồn dữ liệu (data sources) với nhau. Nó khác với loại cuối - đạc tam giác giữa các phương pháp. Cứ tưởng tượng, bạn sử dụng một phương pháp duy nhất để so sánh từ các nguồn dữ liệu khác nhau. Mà nguồn dữ liệu thì có 3 đặc trưng, gồm thời gian, địa điểm, và con người. Từ đó, chúng ta thu thập dữ liệu ở các thời điểm, khu vực, và từ các con người khác nhau sẽ cho ra các dữ liệu có sắc thái khác nhau để mà đối chiếu. 

Kỹ thuật thứ hai là nói đến sử dụng nhiều hơn một nhà nghiên cứu trong cùng một dự án. Một nghiên cứu viên thường có nền tảng giáo dục, văn hóa nhóm, kinh nghiệm cá nhân khác nhau, tạo ra cách nhìn khác nhau đối với sự vật, hiện tượng. Cho nên, nhiều nhà nghiên cứu sẽ giúp kiểm soát các thiên kiến cá nhân (personal biases). Đây là cơ sở lý luận cho việc xây dựng các nghiên cứu hợp tác (collaborative research). Một nhóm nghiên cứu sẽ có điều kiện thực hành "soi gương", phản biện lẫn nhau, nhằm gạn lọc các thông tin và kiến thức và loại bỏ đi các thiên kiến.

Kỹ thuật thứ ba là nói đến sử dụng nhiều hơn một cách nhìn lý thuyết khi đánh giá về cùng một sự vật, hiện tượng được quan sát. Cùng một loại dữ liệu, mỗi góc độ lý thuyết sẽ đưa ra các diễn giải khác nhau. Cho nên, các nghiên cứu thường xây dựng khung lý thuyết vay mượn hay dựa trên nhiều lý thuyết khác nhau. 

Loại kỹ thuật cuối là cách sử dụng nhiều loại phương pháp để nghiên cứu về cùng một sự việc, hiện tượng. Denzin đề xuất hai loại. Một là tam giác đạc nội phương pháp (Within-method triangulation) và hai là tam giác đạc liên kết phương pháp (between-method triangulation). Loại đầu giúp chúng ta đo lường một hiện tượng đa sắc màu hay đa chiều cạnh bằng cách thiết kế nhiều thang đo, cách thức để đo lường, đánh giá về hiện tượng. Chẳng hạn cùng một bảng hỏi, đo lường về năng lực lãnh đạo, chúng ta có thể sử dụng các thang định danh, thứ bậc, thang khoảng khác nhau để đo lường. Kết quả từ mỗi kiểu thang đo được kỳ vọng giúp mô tả đặc trưng đa sắc của hiện tượng. Loại tam giác đạc phương pháp thứ hai kết hợp sử dụng các phương pháp khác nhau vì nhiều người tin rằng nếu chỉ dùng một phương pháp thì thông tin thu được sẽ thiếu hụt dù có thiết kế bao nhiêu loại thang đo đi nữa. Do đó, nhà nghiên cứu nên sử dụng một phương pháp chính và nhiều phương pháp phụ để đối chiếu, so sánh (Denzin 1978: 302). 


Cách lý luận của Denzin chính là đặt mục đích của tam giác đạc nhằm để cung cấp một sự xác nhận (confirmation). Cùng một hiện tượng, sử dụng nhiều nguồn dữ liệu, nhiều người nghiên cứu, nhiều góc độ lý thuyết và nhiều phương pháp để xác nhận thông tin thu được về hiện tượng đó. Việc xem tam giác đạc như một chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực của dữ liệu (validation strategy) từng được chấp nhận khá rộng rãi. 

Thay đổi gần đây


Tuy vậy, gần đây, các nhà nghiên cứu lại phản pháo rằng, cách tư duy này hạ thấp vai trò và khả năng của mỗi phương pháp riêng biệt (xem Flick 2004: 178). Chẳng lẽ từng phương pháp không đủ sức để mang lại các kết luận có giá trị (validated) hay sao? Nếu cứ thế thì nghiên cứu nào sử dụng nhiều phương pháp mới đáng được tin tưởng? Nhiều người cho rằng, bản thân từng phương pháp, từng nguồn dữ liệu, có thể đủ sức mang lại các kết luận có ý nghĩa rồi, không cần phương pháp hay nguồn dữ liệu khác bổ sung, xác nhận. Chẳng hạn, nếu phỏng vấn một người phụ nữ về kinh nghiệm mang thai thì việc kiểm tra tính hiệu lực của dữ liệu có thể thực hiện được chỉ với các thông tin từ phỏng vấn từ ngừoi phụ nữ này, chứ không cần phải thêm các phương pháp hay trường hợp người phụ nữ khác. Như vậy, mấu chốt ở đây là tính hiệu lực được kiểm nghiệm không cần số lượng, mà cần chất lượng, không cần rộng, mà cần sâu.
Do đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng không nên xem tam giác đạc như là chiến lược kiểm nghiệm tính hiệu lực nữa, mà xem nó như một “lựa chọn khác của việc kiểm nghiệm tính hiệu lực dữ liệu… nhằm tăng cường phạm vi, chiều sâu, và tính thống nhất trong các quá trình phương pháp (Flick 2004: 227). Cách tư duy này cho thấy nên dùng tam giác đạc với mục đích hướng tới sự hoàn thiện của dữ liệu (completeness) hơn là chỉ để xác nhận thông tin. 

Dù là để xác nhận hay làm hoàn thiện dữ liệu, tam giác đạc vẫn là một kỹ thuật có ích trong nghiên cứu khoa học xã hội. Kỹ thuật này là cơ sở để xây dựng các chiến lược nhằm đảm bảo tính tin cậy (credibility) và tính hiệu lực (validity) của dữ liệu, đặc biệt là trong nghiên cứu định tính và nghiên cứu hỗn hợp.


***

Reference: 

- Campbell, D.T, 1956. Leadership and its effects upon the group. Columbus, OH: The Ohio State University Press.
- Denzin, N., 1970. The research act: A theoretical introduction to sociological
methods. Chicago: Aldine.
- Flick, 2004, Triangulation in Qualitative Research, in Jenner, Flick, Kardoff, & Steinke (eds), A companion to qualitative research, Sage Publication: London.

[Phương pháp]: Bốn trường phái hệ hình


Bàn đến phương pháp nghiên cứu nếu chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu định lượng hay định tính thì chưa đủ. Bản thân chúng là phương pháp luận (methodology) hay là các cách tiếp cận nghiên cứu, trước và sau chúng còn có nhiều tầng thứ và khái niệm khác. Theo Creswell (2009), có thể chia thành 03 nhóm sau: (a) thế giới quan triết học (philosophical worldviews), (b) cách tiếp cận nghiên cứu (approaches), và (c) phương pháp nghiên cứu (research methods). Thế giới quan triết học là nền tảng lý luận chung dẫn dắt nhà nghiên cứu tới bản chất thực tại và chỉ ra cách để hiểu thực tại đó; cách tiếp cận nghiên cứu tập hợp các lý luận về phương pháp giúp nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu và diễn giải bản chất vấn đề; phương pháp nghiên cứu chính là các thành tố hay cách làm cụ thể ở từng công đoạn cụ thể để đạt tới bản chất vấn đề. 
Thế giới quan triết học theo Creswell bao gồm 4 loại chính gồm hậu thực chứng, thuyết kiến tạo xã hội, chủ nghĩa thực dụng, và tiếp cận biện hộ và có sự tham gia (advocacy and participatory). Cách tiếp cận nghiên cứu có 3 loại, gồm định tính, định lượng và hỗn hợp. Mỗi cách tiếp cận này lại có nhiều các chiến lược nghiên cứu khác nhau ví dụ định tính gồm (ethnography, grounded theory methods, case studies, …). Mỗi chiến lược nghiên cứu có cách thức thiết kế câu hỏi nghiên cứu, xây dựng giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết nghiên cứu, phương pháp đạt tới các vấn đề đạo đức, phương pháp chọn mẫu (sampling), thu thập dữ liệu (data collection), phương pháp làm sạch và nâng cao độ tin cậy (validation, credibility), phương pháp diễn giải và phân tích dữ liệu (data interpretation and analysis).
Ở đây, mình sẽ trình bày tóm lược từ các thế giới quan triết học.
Thế giới quan triết học: Nói gọn, đây là nền tảng lý luận triết học chung nhất để nhìn nhận bản chất thực tại. Mỗi thế giới quan đều bàn tới 2 vấn đề cơ bản: bản thể luận (ontology) và nhận thức luận (epistemology). Bản thể luận  trả lời cho câu hỏi thực tại có bản chất là gì? Còn nhận thức luận trả lời: làm sao để đạt tới việc nhận thức bản chất đó. Về cơ bản, có 4 trường phái lý giải bản thể luận và nhận thức luận khác nhau.
(a) Trường phái thực chứng hay hậu thực chứng (positivism/post-positivism) lý giải thực tại là sự kiện xã hội, mà bản chất của sự kiện xã hội là một thực tại khách quan, muốn đạt tới bản chất của nó thì phải sử dụng cách tiếp cận khoa học tự nhiên. Do đó, trường phái này làm cơ sở cho nghiên cứu định lượng. Trong định lượng, hai chiến lược chính là điều tra xã hội (social survey) và thí nghiệm. Về cơ bản, hai chiến lược này đều hướng tới lượng hóa vấn đề, sử dụng lý thuyết thống kê theo quy luật số lớn để diễn giải số liệu.
(b) Trường phái thứ hai là thuyết kiến tạo xã hội (constructivism) xem thực tại xã hội được tạo thành chính bởi bản thân con người sống trong đó. Do đó, khi chúng ta nghiên cứu một nhóm nào đó, thực tại chính là cái mà nhóm đó tạo thành trong quá trình sinh sống và tương tác với nhau. Để hiểu được thực tại đó, chúng ta cần phải nghiên cứu cách những con người trong nhóm đó nhìn nhận thế giới, các kinh nghiệm họ đã trải qua, các quan hệ họ xây dựng và duy trì, các vấn đề mà họ đang gặp phải. Với quan niệm này, thuyết kiến tạo xã hội là cơ sở cho xây dựng cách tiếp cận nghiên cứu định tính. Trong cách tiếp cận nghiên cứu định tính, có nhiều chiến lược nghiên cứu, ví dụ điền dã dân tộc học (ethnography), lý thuyết từ cơ sở (grounded theory methods), nghiên cứu trường hợp (case studies), nghiên cứu tường thuật (narrative studies), hiện tượng luận (phenomenology), phương pháp luận dân dã (ethnomethodology),... Mỗi chiến lược này bao gồm cách thức đặt câu hỏi, chọn mẫu, thu thập dữ liệu (phương pháp chủ đạo, độ dài ngắn, số lượng), cách thức làm sạch, và diễn giải dữ liệu khác nhau. Các phương pháp thu thập thông tin phổ biến như phỏng vấn, quan sát tham dự, phỏng vấn nhóm, nghiên cứu tài liệu, v.v. sẽ được sử dụng một cách linh hoạt, với yêu cầu khác nhau.
(c) Trường phái thứ 3 là chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) cho rằng điều quan trọng không phải phương pháp, mà là ở vấn đề nghiên cứu – hay là một thực tại xã hội nào đó. Do đó, để hiểu được thực tại đó thì nhà nghiên cứu có thể sử dụng bất kỳ phương pháp nào hiệu quả, từ đây xây dựng ra cách kết hợp định tính định lượng trong thiết kế, thu thập, lý giải thông tin - chính là mixed methods approach. Trong chiến lược nghiên cứu hỗn hợp, nhà nghiên cứu có thể sử dụng song song định lượng và định tính (concurrent), hay tuần tự cái trước cái sau (sequential), hay biến đổi (transformative) sử dụng một thấu kính lý thuyết và sử dụng linh hoạt định lượng và định tính.
(d) Trường phái cuối cùng là thuyết biện hộ và sự tham gia. Trường phái này chú trọng vào việc thay đổi (change-oriented), gắn với chính trị. Do đó nghiên cứu theo trường phái này cần phải tạo ra cơ hội để thay đổi vấn đề nào đó của thực tại thông qua việc cho phép người tham gia nói lên tiếng nói của mình thông qua các phương pháp vận động đặc biệt, tổng hợp và chuyển tiếng nói đó tới tới các nhà lập chính sách, nhằm tạo ra những kết quả có lợi cho các nhóm đó trên thực tế. Trường phái này là cơ sở cho các nghiên cứu phát triển có sự tham gia ví dụ như sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (PRA – participatory rapid assessment) ví dụ như bản đồ cộng đồng, transect walk, seasonal calendar,... Trong nghiên cứu có sự tham gia, định tính thường được sử dụng, nhưng không loại trừ việc sử dụng các phương pháp định lượng để kiểm đếm, đo lường.